Thứ Năm, 9 tháng 3, 2023

Ngũ Lục Hợp trong khoa tử vi - trích sưu tầm tổng hợp

NGŨ LỤC HỢP PHÁP TRONG TỬ VI💮
🌺Có 5 cặp lục hợp : Thiên Đồng - Tham lang, Thiên cơ - Phá Quân, Thiên lương - Liêm Trinh, Thái Dương Thiên Phủ, Vũ khúc - Thái âm

🧧 Vũ khúc là tài tinh, nhị hợp cùng Thái Âm, nên Thái Âm chịu ảnh hưởng của Vũ khúc theo thế tương sinh Vũ khúc (kim)--> Thái âm (thuỷ), do vậy Thái Âm cũng là một tài tinh. billgate mệnh Thái Âm ở Hợi. Có thể thấy Vũ khúc kim tinh vốn có khả năng tính toán, lập kế hoạch kinh doanh, rất táo bạn và cương cường, quyết không lùi bước mà khi Vũ Khúc (kim) sinh Thái Âm (thuỷ) thì Thái Âm cũng được hưởng cái khả năng về tiền bạc của Vũ Khúc, Thái Âm lại có tính Âm nhu, cho nên làm công tác tiền bạc cũng khéo mà lại có biết cách uyển chuyển cho phù hợp tình thế.

🧧Thái Dương cùng Thiên Phủ nhị hợp, Thái Dương là sao chủ về quý hiển, ưa danh vị, chủ về có Quyền rồi mới có tiền. mà Thái Dương (hoả) sinh Thiên Phủ (thổ), Thiên Phủ lại là tài tinh chuyên quản tài khố (giống quản lý tài chính) cho nên cặp này thật ứng hợp Quyền trước sinh tiền sau.

🧧 Thiên Cơ Phá Quân nhị hợp, Phá quân thì ngông cuồng, táo bạo, không ưa phép tắc lề lối, ưa sự thay đổi, có mới nới cũ nên trôi nổi. mà Phá Quân (thuỷ) sinh Thiên Cơ (mộc) cho nên Thiên cơ bị ảnh hưởng cái tính động của Phá Quân thành ra Thiên cơ cũng hiếu động trôi nổi, mà Thiên cơ vốn ưa tính toán, vì sự hiếu động nên tuy tính toán, có khả năng cơ mưu quyền biến nhưng không ổn định và thiếu tính thực tế.

🧧Thiên Đồng Tham lang nhị hợp, Thiên đồng chủ về Tật ách cung là Thọ tinh, thiên đồng lâm miếu vượng gia cát tinh thì rất thọ, nhưng lạc hãm gia thêm sát tinh thì lại rất đáng ngại về tuổi thọ. Tham lang nhị hợp cùng Thiên đồng chủ về Thiện Ác tinh. cái Thiên và ác nó thể hiện ở tuổi thọ, mà Tham lang miếu vượng đi cùng cách tốt thì lại rất thọ, có câu "tham ngộ trường sinh thọ như Bành Tổ". Tham lang vốn là sao 2 mặt, Tham lang là sao Đào hoa tinh vốn chính đào hoa cho nên Thiên đồng nhị hợp cũng bị ảnh hưởng bởi tính đào hoa của nó, khi Thiên đồng lạc hãm mà gia thê Đào Hồng Diêu đi cùng sát tinh thì rất dâm dật.

🧧Thiên Lương Liêm trinh nhị hợp, Liêm trinh là sao đào hoa tinh, chỉ sau Tham lang, khi Liêm trinh lâm miếu vượng đi cùng cách tốt thì là con người liêm khiết, chính trực điểm này giống như Thiên lương đắc địa vậy. Khi liêm trinh hãm địa lại thêm cách xấu thì dâm mà tuổi thọ cũng chiết giảm cũng như Thiên lương hãm địa thì cũng thể hiện tính dâm của nó, "lương Nguyệt Tỵ Dậu phiêu bồng lai chi khách". Thiên Lương tuy là Ấm tinh nhưng lại có hoạn nạn mới hoá giải, mà Liêm trinh lại là sao dễ hoá thành tù tinh khi đi cùng bạch hổ, quan phù, quan phủ hay đà la. cho nên 1 sao thì dễ có nạn còn một sao thì có nạn mới hoá giải.


Thứ Tư, 28 tháng 12, 2022

VCD là gì ? mệnh vcd ? cung vcd và ý nghĩa

Có bao nhiêu trường hợp Vô Chính Diệu? Có 24 trường hợp Vô Chính Diệu. 





Ta có thể tóm gọn như sau.

Vô Chính Diệu có NHẬT NGUYỆT hội họp (miễn sao có 2 sao này tam hợp như Vô Chính Diệu có CỰ ĐỒNG xung, một sao hợp một sao xung chiếu như Vô Chính Diệu có CƠ ÂM xung, Đồng Âm xung)

Vô Chính Diệu có THÁI ÂM xung (như CƠ ÂM, ÂM DƯƠNG xung)

Vô Chính Diệu có THÁI DƯƠNG xung ( CỰ NH ẬT)

Vô Chính Diệu có THIÊN LƯƠNG xung (như Cơ Lương, Đồng Lương,)

Vô Chính Diệu có THAM LANG xung (như Liêm Tham, Tử Tham, Tham Vũ)

Vô Chính Diệu có CỰ MÔN xung (như CỰ CƠ xung)

Có thể rút gọn xuóng còn 4 dạng Vô Chính Diệu có NHẬT hay NGUYỆT cả NHẬT NGUYỆT hội họp. Và quan trọng là NHẬT NGUYỆT sáng hay tối. Và 3 trường hợp khác là Lương, Tham, Cự xung.

Vô Chính Diệu là gì? Là không có chính tinh tại bản cung, như một ngôi nhà vô chủ, như một con người không có lập trường rõ ràng. Vì thế nó bị ảnh hưởng của chính tinh xung chiếu. Ta cần biết lá số TỬ VI vuông vức như bạn thấy, thực tế phải vẽ cho tròn trịa mới hợp lý nhưng vẽ tròn coi bộ khó quá. Thôi thì vẽ vuông vức cũng được miễn sao hiểu rằng: cung chính chiếu ngay trước mắt, như ngôi nhà đối diện bên kia đường nhà bạn. Cung Vô Chính Diệu không có chủ tất bên kia nhảy vào làm chủ ngôi nhà hoang.

Nhưng trong này còn có Bàng tinh như KÌNH DƯƠNG, KHÔNG KIẾP… nó đâu chịu? Bàng tinh chẳng qua là đồ dùng mà thôi. Toàn bộ chòm THÁI TUẾ là sao chỉ cá tính, trạng thái (tốt xấu) vui buồn. Chòm BÁC SỸ là đồ dùng, các sao khác chẳng qua là tình trạng, tình hình báo cho biết xấu tốt. Dùng được hay không dùng được, dùng sinh họa hay dùng sinh lợi các sao Hóa khí sẽ báo cho ta biết.

Ví dụ cũng KÌNH DƯƠNG là cây viết, cây viết sẽ viết trên tờ giấy ra văn phẩm XƯƠNG KHÚC, nếu không có, đành chờ đáo hạn XƯƠNG KHÚC đem ra sử dụng (khổ nổi có người đem theo có người thấy không dùng được vất đi rồi).

KÌNH DƯƠNG không còn là viết thì có thể là dụng cụ nhà nông như cuốc, mai… công cụ như dao… có điện, lửa chớp chớp biến thành vũ khí (ngày xưa múa gươm, vũ khí nói chung ánh sáng lấp loáng). Giải thích như vậy để bạn hiểu Bàng tinh như là công nhân. Chính tinh như một chủ nhân. Nhìn công nhân ta biết chủ nhân. Công nhân trồng chè tức chủ nhân là nhà nông nghiệp, chẳng lẽ một Văn sỹ (có chăng mới bỏ nghề). Nhìn Bàng tinh ta khẳng định vai trò Chính tinh. Như TỬ VI là ngôi sao hành động, hành vi, gánh vác trách nhiệm… gìn giữ biên cương với cây súng trong tay, đích thị là trách nhiệm rồi. Chăm sóc một ngôi trường, một lớp học cũng là trách nhiệm, cho đến chăm sóc quán hàng riêng tư cho gia đình cũng là trách nhiệm với gia đình và khách hàng. Vấn đề còn lại là trách nhiệm với ai. Từ chỗ đó đoán được chân tướng TỬ VI.

Những lập luận trên cho thấy Vô Chính Diệu chấp nhận Chính tinh một cách dễ dàng. Trong khi mình không có chủ nhân nên mong chờ người khác đến làm chủ. Vì thế có câu ”MỆNH Vô Chính Diệu bất minh…” (bất minh không minh bạch rõ ràng, hôm này thế này mai thế khác) sẵn sàng tiếp thu những chính tinh khác khi đáo hạn khác. Một người có chính tinh tại MỆNH như PHÁ QUÂN gặp hạn CỰ MÔN nó suy nghĩ khác, một phá gặp một phản… thì dễ làm phản. Nhưng Vô Chính Diệu gặp Cự cũng chỉ ngang mức cự mà thôi.

Vô Chính Diệu lấy cung xung chiếu mà luận đoán. Vì tại bản cung không có chính diệu nào tọa thủ đương nhiên 2 chính tinh nầy xâm phạm vào cung MỆNH. (chúng ta đang ở trên một vòng tròn gọi là Thiên Bàn, cung xung chiếu đi ngang đường thẳng đi qua tâm, cắt 2 nửa vòng tròn bằng nhau y như trong toán học). Ví von cho dễ hiểu Vô Chính Diệu như người không cha, không mẹ chịu tác động bên ngoài vậy, như tờ giấy trắng bên ngoài viết chi cũng được. Nếu ta có chính tinh tức sẽ có 2 trường hợp tương thích hoặc đối kháng với chính tinh bên ngoài. Đằng nầy không có chính tinh, chỉ có bàng tinh tức chịu sự chỉ huy dẫn dắt bên ngoài, dễ thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài. Ngay như Khổng Minh Vô Chính Diệu cũng bị Lưu Bị dẫn đi. Ví dụ như vậy cực kỳ dễ hiểu, Vô Chính Diệu tam phương tốt nhất định là tốt, còn ngon lành hơn có chính tinh mà nó không chịu hợp tác với nhau. Như nhóm SÁT PHÁ THAM tại MỆNH cực kỳ vất vã mới như ý muốn.

* Ngoài ra luận theo ngũ hành để luận đoán MỆNH phù hợp với chính tinh nào. Ngay cả có chính tinh cũng luận theo ngũ hành để đoán. Người ta cho mỗi sao mỗi hành đâu phải để mà chơi. Đừng đem cái hành của ngôi sao ấy lý luận với cung, với sao đi với nó, đây là sai lầm dễ phạm phải rồi lúng ta, lúng túng tìm cách giải thích trẹo cả lưỡi, chính bản thân mình không hiểu lấy đâu người khác hiểu. Cho nên, chắc gì có TỬ VI tại MỆNH mà mang được trọng trách của TỬ VI.

* Nếu được diện kiến với người có lá số, hoặc biết được cá tính người ấy. Vấn đề tương đối dễ dàng là nghiệm chứng qua hình dáng cá tính. Ngay cả với có Chính tinh thủ MỆNH chứ đừng nói Vô Chính Diệu. Ta cần phân loại Vô Chính Diệu như đã nêu trên, đi sâu vào cần phân loại tiếp.

TUẦN TRIỆT và Vô Chính Diệu.

Nếu như MỆNH có TUẦN hay TRIỆT hay dở phức tạp tùy thuộc chính tinh tại bản cung có thích Tuần hay Triệt không. Như TỬ VI kỵ gặp các sao này. THAM LANG thì ưa.

Cần biết Tuần Triệt có những đặc tính hay. Như Phòng Trừ , Vâng lời đi cả bộ là tuân thủ triệt để, giáo dục, hiểu biết, tiếp thu và loại trừ …. Cho nên Vô Chính Diệu đắc TUẦN hay TRIỆT án ngữ ngay bản cung để tiếp thu và loại trừ. Nhưng không phải Vô Chính Diệu nào cũng cần đến TUẦN TRIỆT nhất là Vô Chính Diệu có Cự Cơ xung. Phúc Đức cung Vô Chính Diệu cũng kỵ TRIỆT Vì là Phúc Đức không thể loại trừ được. Có câu: “Phúc Vô Chính Diệu tu cần KHÔNG tú (Tuần) Kỵ ngộ TRIỆT tinh”

* Bản thân TUẦN, TRIỆT cũng là sao cho nên khi Vô Chính Diệu có 2 sao nầy giá trị như không còn là Vô Chính Diệu nữa. Vì tôi có TUẦN đây, tôi có TRIỆT đây. Uy lực của nó chế ngự cat 2 cung. Nếu không có 2 sao nầy đích thị là Vô Chính Diệu. Vô Chính Diệu có 2 sao nầy là may mắn, nhưng có chính tinh tốt đẹp xung chiếu lại kỵ TUẦN TRIỆT là điều cay đắng. Nhưng thôi, dẫu sao nó cũng được gọi chung là Vô Chính Diệu.

* Trong trường hợp MỆNH đã Vô Chính Diệu, THÂN cũng lại Vô Chính Diệu. Ta có 2 trường hợp

A MỆNH TRIỆT THÂN TUẦN.

B MỆNH TUẦN THÂN TRIỆT.

C. MỆNH (TUẦN hay TRIỆT) THÂN có chính tinh.

D. MỆNH Vô Chính Diệu không có Tuần hay Triệt. THÂN cũng Vô Chính Diệu.

Cả 2 đều Vô Chính Diệu. Trường hợp A hay hơn là B. Vì MỆNH có thể TRIỆT nhưng THÂN không thể TRIỆT được (vì nó là thân xác, thân phận… TRIỆT đi dễ trở thành phế nhân…)

Cho nên có câu:

“Mệnh TRIỆT, Thân TUẦN tu cần vô hữu chính tinh. Vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.”. Tuổi càng cao càng dễ thành công.

Trường hợp B có thể ngoan hơn nhưng chưa biết số phận về đâu.

C là trường hợp MỆNH Vô Chính Diệu có TUẦN, hay TRIỆT. Cung an Thân có Chính tinh, luận theo chính tinh ấy tốt xấu tùy thuộc đắc hãm. Đừng quên rằng cung an Thân nó quan trọng hơn cung MỆNH. Lấy câu "MỆNH hảo bất như THÂN hảo. Thân hảo bất như Hạn hảo" (MỆNH tốt không bằng THÂN tốt. THÂN tốt không bằng Hạn tốt). MỆNH chỉ là ý chí mà thôi. Thân hình hài cần phải khỏe mạnh, tốt đẹp. Mượn tạm hình ảnh nhà bác học ngồi xe lăn bên Mỹ để lập luận. Ví như ông ta là người MỆNH tốt mà THÂN xấu.

Trường hợp D phải kể là xấu. Vì yếu tố phòng trừ không có.

Tiếp là MỆNH Vô Chính Diệu nhưng không có TRIỆT hay TUẦN. xem ở dưới

Vô Chính Diệu nhưng không có TUẦN hay TRIỆT án ngữ:

* Lại có Hung Tinh tọa thủ ta gọi là Hung tinh độc thủ. Có Cát tinh ta gọi Cát tinh tọa thủ. Như Vô Chính Diệu KÌNH DƯƠNG độc thủ, Vô Chính Diệu THIÊN HÌNH độc thủ, VĂN XƯƠNG độc thủ nếu thấy cả 2 ta gọi XƯƠNG KHÚC tọa thủ. Kết hợp với chính tinh bên ngoài mà luận đoán, quan trọng là có phù hợp hay không

Vô Chính Diệu lại không có bộ Phòng Trừ tọa thủ bản cung bị đánh giá chung là xấu, là không an toàn. Chư a chắc đã xấu ví dụ có TỬ VI xung bên trong ta có TRIỆT ông TỬ VI không dám vào giúp đỡ. Như vậy khó tìm ra một công thức chung, mẫu số chung cho các trường hợp Vô Chính Diệu.

MỆNH Vô Chính Diệu có yểu không?

“Mệnh VCD phi yểu chiết nhi hình thương”. Phi yểu chiết nhi hình thương là sao? Không yểu MỆNH cũng thương tật.

Mệnh VCD có thể rất yểu, Mệnh VCD phải vay mượn chính tinh bên ngoài nhưng đôi khi chính tinh không phù hợp với bản Mệnh, như Mệnh Hỏa mà chính tinh lại Thủy. Mệnh VCD cung an Thân cũng VCD, đây cũng là lý do rất dễ yểu.

Mệnh VCD vay mượn chính tinh bên ngoài, mạnh nhất là NHẬT NGUYỆT hội chiếu nhưng cùng lúc cả 2 chính tinh nầy đều ngộ TUÀN TRIỆT thành ra hoàn cảnh quá tối tăm. Đó cũng là lý do yểu.

Mệnh VCD lại có Sát tinh nhập Mệnh. Đây cũng là trường hợp yểu.

Cho nên câu Mệnh VCD không yểu cũng hình thương cũng không phải câu nói quá đáng. Vì vậy để tăng thọ cho cách nầy người ta cho rằng:

“Mệnh VCD nhị tinh diên sinh”

Tức là thay đổi tên họ, thọ cao. Khi thay tên đổi họ tức thì cái tên ấy, danh tính ấy đã chết đi tức là chết cái tên, cái danh, cái họ chứ bản thân không chết. Điều nầy nghe có vẽ như là vô lý phản khoa học phải không? Mắc chi thay cái tên, cái họ lại thọ. Vô lý quá. Vâng có lẽ vô lý thật nhưng nếu bạn là người Do Thái ở vào thời điểm Đức Quốc Xã cai trị, bạn có cho rằng thay đổi được tên họ tất thị được sống. Đúng quá phải không? Nếu bạn là Bin La Den (hoặc ở vào hoàn cảnh na ná) trong tay bạn hiện có nhiều thẻ thông hành phải không? Nếu có bộ râu truyền thống tôi cũng e rằng: râu giả? Thậm chí bạn còn muốn Bin La Den giả chết để Bin La Den thật sống. Vậy thì chuyện thay tên đổi họ mà thọ không có chi là huyền bí hết, tuổi thọ lại cao. Những người hoạt động chính trị vài ba chục tên giả là chuyện thường, thậm chí tên giả còn nổi danh hơn tên thật.

Ở đời, đôi khi có người không ưa cái tên, cái họ của bạn, chừng đó thôi cũng đủ chết. Chứ chưa nói đến có tư thù, tư oán... Bạn không hoài nghi việc bầu cử chỉ vì cái tên, cái họ, cái giới tính, cái nguồn gốc... gạch bỏ không thương tiếc một người có tài năng mà bạn chẳng chịu tìm hiểu. Vậy thì thay đổi tên họ có thể thay đổi cả vận mạng con người. Bạn đồng ý chưa? Biết đâu nhờ cái tên bạn vào phòng mổ sớm 1 tí mà được cứu sống, ngược lại bạn chết vì sự muôn màn.

Và nhìn những Nickname thì có những cái nghe thôi đà sinh bệnh. Lại đổi nickname, đổi nửa nhưng quan trọng là nên đổi cá tính đi.

Các văn sĩ không ai ép buộc chi, chỉ có kinh tế ép thôi. Đôi khi cũng thay tên đổi họ chuyển qua viết dạng ‘mì ăn liền’, dạng ‘bồi bút’, dạng ‘khêu dâm’...

Ngày xưa trùng húy với vua, buộc phải thay đổi danh tính. Thậm chí thân phụ của người viết, trùng tính với quan Thượng Thư mà buộc phải thay tên, nếu không thay tức hoạn lộ không bền, còn kéo theo mạng sống không bền. Thân phụ lại là người Mệnh VCD.

Mệnh VCD thọ.

Không có Hung Sát tinh hội họp hay độc thủ lại có các sao như:

THÁI TUẾ chủ người cao tuổi.

CÁO PHỤ chủ lời bảo ban của bậc cha ông, tức cùng hàm ý thọ.

Hoặc khi có THIÊN LƯƠNG thủ Thân và nhất là THIÊN LƯƠNG xung chiếu MỆNH, như các cách Vô Chính Diệu có ĐỒNG LƯƠNG, CƠ LƯƠNG, DƯƠNG LƯƠNG xung. Đó là nói tổng quát, chứ đừng vin vào đó, quan trọng là có phá cách không. Chính người viết đưa lá số Vô Chính Diệu có ĐỒNG LƯƠNG xung mà bị giết để làm mẫu đấy.

Vô Chính Diệu nào vẽ vang nhất.

Đó là các trường hợp Vô Chính Diệu có NHẬT NGUYỆT hội họp. Hoặc DƯƠNG LƯƠNG xung dù có hãm vẫn còn là tốt. Trường hợp Vô Chính Diệu tại Mùi có DƯƠNG LƯƠNG tại Mão và THÁI ÂM tại Hợi. Được xem như hay nhất. Vì sao Vô Chính Diệu có NHẬT NGUYỆT lại hay (hay là hay về công danh) vì NHẬT NGUYỆT là bộ sao: “Chính bất như chiếu, chiếu bất như giáp”. Cách THAM VŨ Sửu Mùi vốn đã hay còn hưởng thêm cách giáp NHẬT NGUYỆT được phê ‘phi vinh tắc phú” (không sang cũng giàu). NHẬT NGUYỆT ví như ngọn đèn pha chiếu lên sân khấu. Nhìn là nhìn nhân vật đứng trên sân khấu. Một người mà có 2 vầng NHẬT NGUYỆT chiếu vô MỆNH như vậy là quá đẹp. Được gọi là NHẬT NGUYỆT tất nó ưu tiên phát xạ so với các chính tinh khác. Bởi thế mới gọi nó là NHẬT NGUYỆT mặc dù người xưa thừa biết nó không phải mặt trăng, chẳng phải mặt trời nhưng đã ví nó như NHẬT NGUYỆT phải lý luận như NHẬT NGUYỆT thật sự. Biết bao câu phú ca ngợi cách này. Trường Hợp Vô Chính Diệu tại Sửu có cách kia vẫn còn hay mặc dù NHẬT NGUYỆT bị lạc hãm. Ví von dễ hiểu như là rạp hát ế khách chứ không phải là không có khách.

Nhưng chú ý Vô Chính Diệu có cả CỰ NH ẬT, ĐỒNG ÂM, CƠ LƯƠNG 6 sao cùng chiếu ồn ào hơn một cái chợ.

Đứng hạng nhì là trường hợp Vô Chính Diệu có THAM VŨ xung. Thực chất bên trong có bộ Phủ Tướng bên ngoài có THAM VŨ xung nên rất là hay.

VCD có SÁT TINH độc thủ:

Nếu có KÌNH DƯƠNG ta gọi là KÌNH DƯƠNG độc thủ, cũng vậy nếu có ĐÀ LA ta gọi là ĐÀ LA độc thủ, HỎA TINH độc thủ, LINH TINH độc thủ.

Dĩ nhiên có các Sát Tinh độc thủ không phải là hay, cần xét nó có đắc ý không, có phù hợpù hợp hay không? Nhất là KÌNH ĐÀ vì bản thân nó chưa hẳn là hung tinh.

VCD có ĐỊA KIẾP ta gọi là ĐỊA KIẾP độc thủ. Ví du: như câu:

“ĐỊA KIẾP độc thủ, thị kỷ phi nhân. THAM LANG độc cư đa hư thiểu thật”

VCD có lại thêm Mệnh Không Thân Kiếp.

“Mệnh KHÔNG Thân KIẾP lai hội SONG HAO. Vô Chính Diệu thiểu học đa thành.”

Đây cũng là trường hợp hiếm có, chỉ sinh tháng 10, phải có Song Hao, lại Vô Chính Diệu. Học ít thành nhiều. Thực tế người viết chưa gặp trường hợp này không dám kết luận. Song Hao đạt yêu cầu phải là tuổi Đinh Kỷ Quý mới hay.

CÁC CÂU PHÚ LIÊN QUAN:

“Mệnh Vô Chính Diệu đắc TAM KHÔNG hữu SONG LỘC phú quí khả kỳ”

Phú Quý Khả Kỳ là giàu sang một thời, chỉ một thời cũng vẽ vang lắm rồi. Vì trong cách này có chứa cách tam KHÔNG cho nên 3 cái không phải trả.

“Mệnh Vô Chính Diệu bất minh. PHỤ BẬT gia thủ đem mình ly tông”

Vì những lý do trên mà Mệnh VCD có lập trường không rõ ràng, không minh bạch. Trong tình huống đó có sự trợ giúp của PHỤ BẬT dĩ nhiên là dễ rời bỏ tổ tông, vì bật qua bên nầy không được, bật lại bên kia không xong, bật đi xa mơ hồ chưa biết thành bại, thường dễ làm người ta lựa chọn không cần phải là VCD mới lìa bỏ tổ tông, mà có chính tinh đi kèm cũng ưa lìa bỏ. Có câu: “TẢ, HỮU đơn lâm MỆNH viên ly hương sở nghiệp.” Vì tất cả các trường hợp có TẢ HỮU tại MỆNH, tức cung Phụ hay Huynh đều có sao HÌNH, chỉ một sao HÌNH này thôi, ở cũng không yên trong lúc luôn luôn có bạn bè, kẻ trên giúp đỡ Vô Chính Diệu lại càng mau đi nữa.

“Mệnh TRIỆT, Thân TUẦN tu cần vô hữu chính tinh. Vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.”

Câu này nếu MỆNH TRIỆT, Thân TUẦN Vô Chính Diệu tuổi cao thành đạt, tức tuổi trẻ khó thành. Nhận xét chung trường hợp này có tính phòng bị thái quá.

“Thân Mệnh đồng cung Tí Ngọ hoặc cư tuyệt xứ. Vô chính tinh khủng kiến MÃ, LINH, HÌNH, KIẾP. Chung thân hoa khai ngộ vũ mãn kiếp phi yểu chiết nhi hình thương.”

Vô Chính Diệu Tại Tý Ngọ lại thêm Thân Mệnh đồng cung. Kỵ gặp MÃ LINH HÌNH KIẾP 4 sao này thấy tay chân tật nguyền rồi. Suốt đời như như đóa hoa nở gặp mưa gió dập vùi, không yểu cũng thương tật.

“Thân Mệnh đồng cung tối hiềm nhập mộ hoặc cư Tuyệt xứ. Vô Chính Diệu hoan phùng TẢ HỮU SINH VƯỢNG hoá hung vi cát chung thân vượng hưởng phúc tài.”

Vô Chính Diệu tại Tứ Mộ cung, hoặc tại Hợi. Kỵ Thân Mệnh đồng cung TẢ HỮU SINH VƯỢNG lại tốt, suót đời hưởng 2 chữ phúc và tài lộc

“PHÚC Vô Chính Diệu tu cần KHÔNG tú (Tuần), Kị ngộ TRIỆT tinh, nhược phùng SINH, HÌNH, KỊ, VIỆT vi nhân tiêu trưởng.”

Cung Phúc Vô Chính Diệu cần Tuần kỵ Triệt (Vì TRIỆT chủ bị trừ, xem nhẹ coi thường… phải xem trọng, quan phòng… cung này chưa bà con trong đó) Nếu có các sao kể trên là người không thể thành đạt, thành họa thì có... Bộ KỴ HÌNH đã mệt hung rồi, thêm VIỆT chủ phát sinh, thêm Sinh để nẫy họa. (từ hung là phương ngôn người Huế nói riêng, như mệt quá, chư không phải hung dữ hay hung họa).

Các cách ghi trong sách về Mệnh vô Chính Diệu qúa đơn giản, thiếu sót, cho nên dễ sai lầm.
- Có Mệnh Vô Chính diệu tốt, có Mệnh Vô Chính Diệu xấu.
- Không phải chỉ xoay quanh cái “Đắc Tam Không, có khi đắc Tam Không mà tốt, có khi đắc Tam Không mà xấu”.
- Tam Không là những Không nào ?

Trên đường tìm Mệnh Vô Chính Diệu

Chúng tôi có nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu trong tay, chúng tôi cũng được nhiều vị thân hữu cho xem những lá số Mệnh Vô chính Diệu, và, xin thú thật càng xem càng như lạc vào rừng. Có những vị Mệnh Vô Chính Diệu mà thật khá, có những vị Mệnh Vô Chính Diệu nhưng thật kém. Nhưng cứ theo các sách thì Mệnh Vô Chính Diệu, cần đắc Tam Không mới “phú quý khả kỳ” – Nhưng theo các lá số, có vị mệnh Vô Chính Diệu không đắc Không nào, mà được rất khá, lại có vị đắc Tam Không, nhưng lại bị dở.

Xem ra thì sách nói qúa thiếu xót, cho nên khó mà đúng được. Theo các sách thì Mệnh Vô Chính Diệu, cần có TUẦN, TRIỆT án ngữ và cần thêm THIÊN KHÔNG, ĐỊA KHÔNG hoặc không có những “Không” đó , cũng phải có nhiều sao tốt hội họp mới được, nghĩa là mới khá và mới sống lâu. Những cách đại cương đó, áp dụng vào các lá số, khi đúng, khi sai. Tất nhiên, cách Mệnh Vô Chính Diệu, không phải chỉ đơn thuần được giải đoán như thế, là vì theo thiển nghĩ của chúng tôi, ngoài sự kiện Mệnh không có chính diệu, ngoài các sao Không, còn có các chính tinh chiếu, các hung tinh, các trung tinh tốt khác, còn sự kiện hành của Mệnh .v.v…. tất cả những sự kiện đó còn ràng buộc với nhau để tạo nên sự tốt xấu.

Trong mục tiêu đi tìm ý nghĩa của Mệnh Vô Chính Diệu, chúng tôi đã cần đến nhiều vị. Có vị lão thành bảo rằng Tam Không phải là Tuần Không, Triệt Không và Địa Không. Sở dĩ phải kể cả Triệt là vì danh xưng của sao đó là Triệt lộ Không vong. Có vị lại cho rằng Tam Không phải là Tuần Không, Địa Không và Thiên Không, còn Triệt là Triệt lộ chứ không phải là Triệt Không, vả lại danh xưng Thiên Không đã sẵn đó để được kể là một Không. Có những lần, chúng tôi có ghi về kinh nghiệm của cụ Ba La, nói rằng Mệnh Vô Chính Diệu mà có TUẦN, TRIỆT đóng ở đó, thì dù có gặp các sao tốt như Lộc Tồn, Tam Hóa, Tả Hữu vẫn phải kể là bị giảm đi, bởi vì TUẦN & TRIỆT làm giảm những cái xấu, nhưng cũng chiết giảm những cái tốt. Cho nên Mệnh Vô Chính Diệu mà được những sao tốt thì phí đi chứ không hay.

Trong phần trước tôi đã đăng một bài nêu lên kinh nghiệm của Cụ Quản Văn Chính với chủ đề ”Mệnh Vô Chính Diệu có phi yểu tắc bần không ? ” . Trong đó có trình bày 3 lá số Mệnh Vô Chính Diệu mà không yểu cũng không bần. Điều đó đó càng thúc đẩy chúng tôi tìm hiểu thêm trọn vẹn những yếu tố để giải đoán trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu. Nay chúng tôi xin trình bày của cụ Thiên Lương nêu lên các kinh nghiệm của cụ, để giải đoán các trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu

- Thế nào thì được gọi là "Mệnh vô chính diệu"?
- Khi cung MỆNH không có chính diệu, nhưng cung hợp và xung chiếu có đến vài "ông" tốt thì có được gọi là "Mệnh vô chính diệu" không?
Tôi mới học an được "Mệnh, thân và một vài sao(Cũng phải mở sách để an)" nhưng chủ yếu là khi nào học lại lấy lá số trên mạng cho nhanh(Vì không đủ thời gian để giở tài liệu mà không thể học thuộc lòng trong một sớm một chiều được).
Tôi đọc các sách nói về tử vi thì chưa rõ về "Mệnh vô chính diệu" lắm
Rất mong nhận được chỉ giáo của các thành viên DD để tôi nâng cao trình độ. Xin cám ơn nhiều
Ba Cách Tốt Nhất của Mệnh Vô Chính Diệu
- Tam Không tọa chiếu Mệnh
- Sát tinh đắc địa độc thủ
- Nhật Nguyệt hợp chiếu

Ngoài 3 cách này còn 1 cách khác nữa là được nhiều sao tốt như Khoa Quyền Lộc Xương Khúc Khôi Việt Long Phượng Hổ Cái Quang Quý Thai Toạ Tả Hữu ... hội chiếu vào Mệnh; kì dư thì "phi yểu tất bần", cơ mà VD chưa thấy lá số nào bất hạnh như thế và cũng mong không bao giờ thấy vì VD tin Ông Trời luôn cho con người 1 đường sống, miễn người đó biết hành thiện tích đức, không cho mình thì cũng cho con cháu :!: ;-)


Mệnh vô chính diệu rất cần gặp tuần triệt án ngữ sẽ đão nghịch ảnh hưởng xấu hóa tốt , nếu hội thêm 2 không nữa thì quả là mỹ mãn , mười phần vẹn mười,nếu chỉ có 2 không thì chế bớt đi một ít , xung chiếu thì ảnh hưởng mạnh mẽ hơn là tam hợp chiếu (nhị chiếu chưa từng nghe qua), đào , phục , binh , thai , kiếp , không ( rất đáng lo ngại khi chúng hội nhau )

"Cung VCD và Tuần Triệt án ngữ
Ngoại trừ trường hợp cung VCD có hung tinh đắc địa độc thủ thì không nên có Tuần Triệt án ngữ, còn tất cả các trường hợp cung VCD đều rất cần có Tuần hoặc Triệt án ngữ tại bản cung để câu hút được chính tinh về, để ngăn chặn các ảnh hưởng xấu xa do hung tinh lạc hãm đóng tại cung VCD hoặc chiếu về cung VCD. Nếu gặp Triệt tại Thân Dậu, Tuần tại Thìn Tí hoặc Dần Mão thì càng hay (Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa hoặc Mộc vị thì bất kỵ Sát Tinh bại điều tai ương sở tác). Chú ý rằng cung VCD gặp Tuần án ngữ tốt đẹp hơn cung VCD gặp Triệt, gặp Triệt cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp của cung VCD ở mức độ kha khá trong trường hợp có chính tinh sáng sủa xung chiếu và nhiều trung tinh sáng sủa hội chiếu. Nếu không có Tuần hoặc Triệt đóng tại cung VCD thì hiệu quả ảnh hưởng của chính tinh xung chiếu yếu đi, và cho dù cung VCD có nhiều sao sáng sủa hội chiếu cũng không thể coi là rực rỡ được, tốt lắm thì sự tốt đẹp cũng chỉ ở mức độ trung bình khá mà thôi. Khi có Tuần hoặc Triệt tại cung VCD thì mặc dầu ban đầu tuy gặp khó khăn trở ngại nhưng về sau lại thuận lợi hơn, tốt đẹp hơn. Tuần Triệt ở đây còn có tác dụng ngăn trở các sao xấu, nếu có, chiếu về cung VCD, và giải cứu được trường hợp phi yểu tác bần nếu VCD tại cung Mệnh. Trường hợp Tuần Triệt án ngữ đồng cung thì thông thuờng ta có thể giải đoán là cung VCD này không tốt cũng không xấu, tốt xấu chỉ nằm khoảng ở mức độ trung bình mà thôi. Trong trường hợp này ta gần như không cần quá chú trọng lắm đến các sao hội chiếu vì ảnh hưởng gia giảm của các sao này tuy vẫn có nhưng hầu như không nhiều vì Tuần ngăn các sao tốt chiếu tới là chủ yếu, còn Triệt thì ngăn cản các hung tinh chiếu tới trong khi các sao tại bản cung thì bị cả Tuần lẫn Triệt vây trảm. Cần chú ý có một số sao kỵ gặp Tuần Triệt như Tướng Quân nếu đóng tại cung VCD mà gặp Tuần Triệt thì dễ đưa đến tai họa bất ngờ nếu rơi vào trường hợp bị đương đầu. Đặc biệt nếu VCD tại Tứ Mộ thì lại rất cần Tuần Triệt án ngữ.
Trường hợp đặc biệt Mệnh VCD có Tuần hoặc Triệt thủ, có hai trong ba sao là Tuần, Triệt, Thiên Không chiếu thì gọi là VCD đắc tam không, nếu mệnh Hỏa hoặc Kim thì phú quí khả kỳ (được hưởng phú quí trong một giai đọan, bởi vì tính chất của các sao Không trong trường hợp này tuy đưa đến tốt đẹp nhưng không toàn vẹn, chỉ hưởng tốt đẹp trong một giai đọan mà thôi). Đắc Tam Không là Tuần Không, Triệt Không và Thiên Không. Không tính sao Địa Không. Cần một thủ, hai sao chiếu. Trong trường hợp đắc tam không này ta không lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ. VCD đắc tam không mà không có Tuần Triệt án ngữ thì là cách Kiến Không. Mệnh VCD đắc tam không thì mệnh Hỏa đẹp hơn Mệnh Kim, còn các Mệnh khác thì không hưởng mấy (không giàu có nhưng nhìn chung thì cuộc sống không đến nổi xấu, cuộc sống cũng được tạm đủ hoặc kha khá). Phú có câu:

Mệnh VCD đắc Tam Không phú quí khả kỳ
Mệnh VCD hoán ngộ Tam Không hữu Song Lộc, phú quí khả kỳ

Trường hợp VCD đắc tam không, nếu có hung tinh lạc hãm hay đắc địa tọa thủ tại cung VCD thì cũng chỉ làm xấu một chút mà thôi, ta không đáng lo ngại lắm về họa của các sao này gây ra

Trường hợp vô chính diệu mà không có Tuần Triệt án ngữ, lại có sao Thiên Không thủ là cách ngộ Không, là người quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc đời thăng trầm cực khổ. Nếu lại gặp thêm các sao Không khác ở các cung hội chiếu thì lại thông thường càng xấu hơn, cuộc đời sẽ thăng trầm cực khổ nếu không bị chết yểu.

Nhìn chung trường hợp VCD mà lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ thì cho dù có được chính tinh sáng sủa xung chiếu, được Tuần Triệt án ngữ cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp của cung đó cũng chỉ là mức độ khá là tối đa mà thôi, chứ không thể nào rực rỡ như có chính tinh sáng sủa tọa thủ được. Còn nếu gặp chính tinh lạc hãm xung chiếu hoặc có nhiều sao xấu hội tụ mà lại không có Tuần Triệt án ngữ cứu nguy thì rơi vào cách phi yểu tác bần. Nếu có hung tinh lạc hãm khác hành bản Mệnh tọa thủ thì càng nguy hiểm hơn. Cung VCD mà có sát tinh hãm địa thủ thì rất xấu, dễ lâm vào trường hợp phi yểu tác bần (rõ nét nhất cho những người có hành bản Mệnh bị hành của hung tinh khắc) Ngọai trừ có Tuần Triệt án ngữ cứu nguy hoặc có nhiều cát tinh cứu giải như Quan Phúc, Quang Quí tọa thủ tại bản cung là tốt nhất….

VCD có hung tinh đắc địa độc thủ
Hung tinh đắc địa này phải là hành Hỏa hoặc hành Kim mới được coi là rơi vào trường hợp này. Trong trường hợp này thì ta chọn hung tinh này làm nòng cốt cho cung VCD, không lấy chính tinh xung chiếu để giải đoán. Một số tác giả cho rằng hao bại tinh đắc địa có thể làm nòng cốt cho cung VCD như Tang Môn (Mộc), Song Hao (Thủy), Khốc Hư (Thủy) nhưng theo thiển ý thì không chính xác.
Thứ tự mức độ tốt có thể sắp xếp như sau:
Bạch Hổ đắc địa tốt nhất, tại Thân Dậu tốt đẹp hơn tại Dần Mão
Kình Đà đắc địa, Kình đẹp hơn Đà
Không Kiếp đắc (Tỵ Hợi đẹp hơn Dần Thân), Hỏa Linh đắc
Đặc biệt Thái Tuế (hành Hỏa) cũng được dự phần vào trong cách này với điều kiện không gặp Tuần hoặc Triệt và phải rơi vào cung Mệnh hoặc Thân VCD
Một vài ghi nhận về vị trí của hung tinh đắc địa
Không Kiếp hành Hỏa miếu địa tại Tỵ Hợi, đắc tại Dần Thân
Hỏa Linh hành Hỏa đắc địa tại cung ban ngày từ Dần tới Ngọ
Kình Đà hành Kim đới Hỏa, đắc địa tại Thìn Tuất Sửu Mùi
Bạch Hổ hành Kim đắc địa tại Dần Mão, Thân Dậu

Hung Tinh đắc địa phải là hành Kim và Hỏa mới có tác dụng mạnh và bản Mệnh phải đồng hành với hung tinh này thì mới hưởng tốt đẹp trọn vẹn. Các Mệnh khác thì hưởng yếu hơn, ta có thể tạm đánh giá thì chỉ nằm trong mức độ trung bình. Trong tất cả các trường hợp trên thì ngoại trừ Bạch Hổ và Thái Tuế còn có tác dụng tốt lâu dài về sau, còn lại các trường hợp khác thì tuy làm cho cung VCD được sáng sủa rực rỡ nhưng chỉ là một giai đoạn mà thôi, không có tác dụng tốt lâu dài.Mọi sự xấu tốt đều đến nhanh. Không Kiếp phát huy tính chất lên bất ngờ nhanh chóng nhất nhưng cũng đưa đến suy bại nhanh nhất trong toàn bộ các hung tinh vừa kể.

Nếu Mệnh VCD có hung tinh đắc địa độc thủ nhưng bị Tuần Triệt án ngữ thì không đúng cách đã nói ở trên, trong trường hợp này ta luận giải như trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ, với Tuần Triệt án ngữ tại cung.

Cung VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) :

Trường hợp nếu có đủ bộ Âm Dương sáng sủa tại Mão và Mùi Hợi chiếu hoặc Âm Dương đồng cung xung chiếu đến cung VCD thì ta lại chọn bộ Âm Dương này làm nòng cốt cho cung VCD, chứ không lấy các chính tinh xung chiếu bởi vì qui luật của Nhật Nguyệt là chiếu đẹp hơn tọa thủ. Trong trường hợp nay ta có thể đoán rắng cung VCD này trước tuy có gặp trục trặc trắc trở nhưng về sau thì khá tốt. Tốt xấu hơn thì phải căn cứ vào sự tụ tập của các sao khác. Nếu có Tuần hoặc Triệt án ngữ tại cung VCD thì cung VCD này càng trở nên tốt đẹp bội phần, gặp Tuần tốt hơn gặp Triệt. Gặp Triệt thì chỉ kha khá thêm một chút mà thôi. Trường hợp Nhật Mão Nguyệt Mùi thì cần phải không bị sao nào làm giảm sức sáng, ví dụ như cần phải không có Tuần Triệt án ngữ Nhật Nguyệt, hoặc Hóa Kỵ đóng đồng cung làm giảm sức sáng của Nhật hoặc Nguyệt. Nếu một sao bị Tuần hoặc Triệt án ngữ hoặc bị Hóa Kỵ đồng cung, nghĩa là bị giảm sức sáng thi sẽ đưa đến mức độ tốt giảm đi rất nhiều, cung VCD trong trường hợp nay chỉ tốt ở mức độ trên trung bình một chút mà thôi. Nếu Nhật Nguyệt được các phụ tinh làm tăng sức sáng như Xương Khúc Đào Hồng thì lại càng tốt đẹp bội phần. Trường hợp có Nhật Nguyệt Sửu Mùi chiếu thì nếu Nhật Nguyệt bị Tuần hoặc Triệt tại cung thì càng tốt, có Hóa Kỵ đồng cung với Nhật Nguyệt thì càng tốt hơn.
Chú ý rằng chỉ rơi vào hai trường hợp này thì ta mới sử dụng bộ Nhật Nguyệt, còn tất cả các trường hợp khác thì nếu có Âm Dương chiếu ta cũng lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ."

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2022

Tất tần tật về Tuần Triệt

 

TL: Đi tìm sự bí ẩn của Tuần-Triệt!

Gửi bài 

Tăng mọi người nghiên cứu. Không ai được bàn luận bài này ở đâu, do ai viết. Chì nghiên cứu và cho ý kiến hợp lý hay không:
TUẦN TRUNG KHÔNG VONG và TRIỆT LỘ KHÔNG VONG.
Đó là tên đầy đủ của 2 ngôi sao nổi tiếng. Việc viết tắt cho thuận tiện vô tình tước đoạt mất những tính chất bị bỏ quên, gây hại cũng không ít, vì làm quên đi tính chất của LỘ và TRUNG và 2 từ Không Vong cũng mờ nhạt trong ý nghĩa.
TUẦN và TRIỆT mỗi sao chiếm 2 cung, xung chiếu và hợp chiếu lên 6 cung khác. Uy lực lên 8 cung, ảnh hưởng của TUẦN TRIỆT bàng bạc khắp nơi. Đây là bộ sao cực kỳ quan trọng, an theo chiều nghịch. Hết một chu kỳ của TUẦN mất 60 năm, một chu kỳ của TRIỆT 5 năm. 
Đặc biệt TRIỆT không án ngữ tại 2 cung Tuất và Hợi. Hai sao này thường viết tắt là TUẦN và TRIỆT. 
Không hiểu biết đặc tính 2 sao nầy có thể đưa đến luận đoán sai 100%. Khi tìm hiểu 2 sao nầy không thể tách rời ra, phải nói chung mới thấy hết cái hay của nó...
TUẦN TRIỆT có những điểm tương đồng, đồng thời có những điểm dị biệt. Những điểm khác biệt đó lại bổ sung cho nhau. Và TUẦN TRIỆT phù hợp với một số chính tinh, đồng thời lại gây bất lợi cho 1 số chính tinh khác. Hằng năm còn có lưu TUẦN TRIỆT phối hợp các cung. Cho nên luôn luôn có TUẦN TRIỆT cố định hay lưu động ở đâu đó.

ĐIỂM DỊ BIỆT của TUẦN và TRIỆT phối hợp tốt. 

TUẦN chủ bên trong, vào trong TRIỆT chủ bên ngoài, ra ngoài.
TUẦN chủ bên trong như: trong nhà, trong nước, nội bộ, trong lòng....
TRIỆT chủ bên ngoài như: Ngoài đường, ngoài xã hội, ngoài mặt.
Yếu tố phối hợp tốt là có trong có ngoài. Ra ngoài vào trong, thiếu 1 yếu tố quá thiên về vào trong mà không ra ngoài. Cũng như vào bệnh viện và ra khỏi bệnh viện. Nếu thiếu yếu tố ra chắc hẵn nằm lâu hoặc ra luôn nhà xác. Cũng như hít vào thở ra tạo thành tuần hoàn. Cũng như các cụm từ: Trong lòng và ngoài mặt. Hoặc “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Hai yếu tố trái ngược nhau nhưng rất cần thiết.
Nói chung vị trí nào ngộ TUẦN là thiên về TUẦN và TRIỆT cũng vậy. Bộ sao tuần hoàn của cơ thể. Hít vào thở ra. Ăn vào thải ra. Đi ra đi vào, đi ra mà không đi vào là đi luôn. Đi luôn có thể không bao giờ về nữa.
Xuân đi xuân đến vẫn là xuân, sự tuần hoàn của tạo hoá, của thời gian. Sinh lão bệnh tử cũng là sự tuần hoàn hay nói cách văn vẻ vòng đời.

Trong nhà và ngoài đường là câu thường nói. Việc bên trong có tính cách quan trọng vì nội bộ. Chuyện bên ngoài là chuyện thế gian. Ít quan trọng hơn, có khi chi biết mà không ảnh hưởng gì.

THU VÀO và XUẤT RA:
Thâu nhận vào, nhận vào, nhập vào, thêm vào... Xuất ra, chi ra, đuổi ra, loại trừ ra, xoá bỏ đi ...
TUẦN chủ: Thâu vào, thu vào, nhập vào... TRIỆT chủ: Xuất ra, chi ra, đuổi ra.
Có thu vào tất có chi ra. Có nhập vào tất có xuất ra. Cũng như khi thu nhận học trò có lúc phải đưa tiển học trò ra trường. Phong học hàm cho trò. Thầy là THÁI TUẾ. Học trò là TANG MÔN. Nhưng học trò viết mail xin học Tử Vi tỏ thái đọ bất kính, thầy có quyền lơ không trả lời mail. Vậy thì, thu vào là anh tiếp nạp. Tốt là anh tiếp nhận cái tốt. Vì sao không được nhận vào, không cho vào vì sao TUẦN xấu. Ra trường, ra đời là câu thường nói. Nhưng xấu là bị đuổi ra, thải ra loại trừ ra bên ngoài xã hội. Bây giờ, xấu tốt chưa bàn đến. Bao giờ các yếu tố cũng có tốt và xấu. Được và bị... Có những nơi chúng ta không nên vào. Có nơi chúng ta bị cấm vào. Có nơi chúng ta cần vào.
Hai yếu tố vào ra đồng bộ mới hay. Đây là yếu tố phối hợp rất tốt. Nếu lỡ thu nhận cái xấu vào ta có thể xua đuổi nó ra.
Xấu là bị nhiễm vào không loại trừ ra được. Ví dụ phơi nhiễm bệnh. Đó là cách tam Không, TUẦN BỆNH PHÙ, TUẦN HÌNH DIÊU Y. Đây chỉ là vài nét đơn sơ. Tuy nhiên cách tam Không có tính phức tạp, có trường hợp không xấu mấy. Bài viết không đi sâu vào cách tam Không. Trong khi TUẦN TRIỆT chưa biết hết là gì.
Cũng như yếu tố hít vào và thở ra. Có như thế tạo ra sự tuần hoàn vô tận. Đến đây các bạn thấy, lá số TỬ VI mô tả hình ảnh thật của con người. Trong đó có yếu tố tuần hoàn, yếu tố sinh hoạt vào ra. Từ đó ta gặp nhiều thành ngữ.
Xuất quỷ nhập thần. Xuất nhập nơi quyền quí. Vào ra một mình. Vào nam ra bắc. Vào sinh ra tử (ra đây là ra mặt trận, vào là trở lại trong thành trì của mình). TỬ VI trời ơi! thấy TRIỆT là sợ. TRIỆT LỘ là... ra đường mà đi. Việc gặp tai nạn, vi phạm pháp luật lại là các sao khác.

TUẦN là dấu cộng. TRIỆT là dấu trừ.
Do TUẦN chủ thêm vào cho nên nó là dấu cộng. Đi với cát tinh chủ thêm người, thêm của. Nếu cộng những cái giống nhau là tính nhân. TUẦN tốt là thêm tài thêm lộc, thêm người... TUẦN xấu là thêm tai, thêm hoạ thêm những kẻ xấu quanh mình. Cái mà bên trong sao Tuần chứa mới là quan trọng. Đó là điều bạn cần biết.
Do TRIỆT bị loại trừ ra, bớt đi. Vì thế TRIỆT là dấu trừ. Ta cũng biết là trừ những cái giống nhau là dấu chia.. . Cần biết TRIỆT có khả năng xoá bỏ, trừ đi cho nên là ngôi sao cần thiết xoá bỏ Sát tinh và Hung tinh. Nơi đóng hay nhất của TRIỆT là tại cung Tật Ách. Giúp xoá bớt tai hoạ. 
Giải trừ tai hoạ là cách VŨ TRIỆT. Cho nên cộng vào, thu nhập vào chưa chắc đã tốt quan trọng là cộng vào cái gì. Loại trừ ra chưa hẵn đã xấu.
Nếu để ý kỹ. Đa phần các Can Chi một phía Tuần vui và 1 phía Tuần buồn. Một số trường hợp lại na ná giống nhau.
Ví dụ để dễ hiểu. Chọn Giáp Tý nam Tuần tại Hợi vui hơn Tuần tại Tuất. Rõ nét nhất là Kỷ Sửu. Tuần tại Mùi buồn hiu, Tuần tại Ngọ đẹp rực rỡ. Vui là nhóm ĐÀO HỒNG HỈ, buồn là nhóm TANG HƯ KHÁCH. Tốt là nhóm THÁI TUẾ có PHƯỢNG CÁC. phức tạp là THÁI TUẾ có ĐÀ LA.
TUẦN + KHOA QUYỀN LỘC tức là trọng vọng.
TUẦN + KỴ HÌNH là bị nhắm bắn đấy. Mũi súng ống nhắm đang chĩa vào mình.

Thu Hút Vào... Lộ Ra...
Khi tốt. Tuần có sức thu hút, lôi cuốn vào trông khiến cho mọi người bị hấp dẫn. 
Ví dụ bộ TUẦN ĐÀ đi với cát tinh, tính hấp dẫn là Đà, lôi cuốn là TUẦN, phối hợp nhịp nhàng.
Chỉ nghiên cứu bộ TUẦN ĐÀ ngắn gọn thôi cũng có các dạng.
Dạng tốt.
TUẦN ĐÀ TUẾ PHƯỢNG và không có PHƯỢNG CÁC  
TUẦN ĐÀ TANG HƯ KHÁCH PHƯỢNG và không có PHƯỢNG CÁC.
Hoặc TUẦN ĐÀ ĐÀO HỒNG .
Tất nhiên dự phòng. Có bạn la làng. Sao thực tế TUẦN ĐÀ của cách tốt, cách vui mà tai hoạ phức tạp lắm. Nhắm mắt, bịt mũi cũng biết trong đó có bầy Sát tinh KỴ HÌNH. Đi với ĐÀO HOA, THÁI TUẾ mới sinh chuyện chứ.
Cũng Tham Đào khen, cũng Tham Đào bị chê là chuyện bình thường.

Muốn thế TRIỆT phải lộ ra cái gì đó, loài hở ra, tiết lộ ra. Nhờ những yếu tố lộ ra của TRIỆT, TUẦN mới hấp dẫn thu hút được lòng người, hay người xem. Vào trong ta mới thấy lộ ra những điểm hay dở.
Yếu tố này phù hợp với yếu tố KÌNH ĐÀ. Kình giương lên để Đà la lôi kéo. Khi 2 bộ TUẦN TRIỆT và KÌNH ĐÀ giao hội với nhau tạo thành các bộ TUẦN KÌNH, hay TUẦN ĐÀ, TRIỆT KÌNH hay TRIỆT ĐÀ. Tất nhiên đi với ĐÀO HOA chủ vui, đẹp có có hướng luận đoán.

Trọng và khinh. Xem trọng và coi nhẹ.
TUẦN chủ. Xem trọng, coi trọng, quan tâm đến.... Như, tôi xem việc ấy đối với tôi là quan trọng, xem trọng công danh, quan trọng vấn đề con cái... Một câu người ta hay nói: Hy sinh đời bố củng cố đời con. Tất nhiên TUẦN tốt là được coi trọng, tức trọng vọng, nhân vật quan trọng, nhân vật trung tâm.
Xấu là tập trung vào đó mà chỉ trích, mà bắn, bị chú trọng, bị quan tâm..
TRIỆT chủ. Coi nhẹ, xem thường, coi nhẹ (khinh là nhẹ), không quan tâm..... Coi nhẹ việc đau ốm. Xem thường chuyện mồ mả thế, anh không quan tâm đến tình cảm của em sao... TRIỆT đụng đầu bộ sao tình cảm PHỦ TƯỚNG là kẻ vô tình, bạc nghĩa.
Từ trọng khinh đó biến đổi thành Nặng và Nhẹ. Như, Nặng gánh giang hồ.... Yếu tố này như bộ Đại, Tiểu. Tất nhiên các sao đều có sao bổ sung cùng mang ý nghĩa làm tăng tính chất nó lên cao. Ví dụ. TUẦN ĐẠI có tính quan trọng. TUẦN Tiểu cũng đáng quan tâm nhưng xếp sau. 
Ví dụ, Việc thi cử quan trọng hơn chứ. Việc cưới xin từ từ đã. Đúng rồi, nhưng anh à việc thi cử đã xong rồi, việc quan trọng đối với em là cưới xin.
Từ đó, 2 sao này đi với cát tinh chủ được trọng vọng, 
TRIỆT tốt được miễn lệ, ngoại trừ, bất khả xâm phạm.... Tất nhiên quanh đấy là toàn cát tinh, quyền tinh. Triệt đành miễn trừ, ngoại lệ, bất khả xâm phạm. Vì TRIỆT là ngôi sao sẵn sàng xoá bỏ loại trừ khi có phe nhóm của nó là tam Không. Trong trường hợp này đành phải miễn trừ, đâu dám loại trừ.

TRIỆT xấu là kẻ bên lề, kẻ bị loại trừ, kẻ đứng đường... TRIỆT có lợi thế trừ được Sát tinh KHÔNG KIẾP, Hung tinh SÁT PHÁ THAM. Nhưng bất lực trước thị phi tinh và Hình tinh Kỵ tinh. Tức hình thành các bộ tam Không. Bộ KỴ HÌNH TRIỆT nương theo Kỵ HÌnh đó mà triệt tới bến.
TUẦN tốt: Là được trọng vọng, là tôn trọng, kính trọng, nhân vật trung tâm có sức thu hút. 
TUẦN xấu: Là trọng tội, trọng hình, trọng nạn dễ bị tập trung để chỉ trích. TUẦN hầu như không hoá giải được các Sát tinh, Thị Phi tinh, Hình tinh làm tình hình xấu thêm. Đó là TUẦN đi với KHÔNG KIẾP, tam KHÔNG, KỴ HÌNH biến thành trọng nạn, trọng tội. Tuần nương theo đó mà nói không có gì để đáng trọng cả.
Các thành ngữ dễ gặp là trọng văn khinh võ, bên trọng bên khinh, trọng nam khinh nữ (Tuần Dương Triệt Âm), trọng nghĩa khinh tài (Tuần Tướng Triệt Vũ)

TUẦN NGƯỜI TRONG CUỘC, TRIỆT KẺ BÊN LỀ:
TUẦN chủ ở trong, bên trong, vào trong... Vì thế TUẦN là kẻ trong cuộc, người trong cuộc. Do TUẦN đứng giữa 2 cung ta dễ bắt gặp cuộc bên này vui, cuộc bên kia buồn. Cá biệt 2 cuộc thiên về vui.
TRIỆT trái lại, do bị loại trừ ra, hoặc tự mình xếp vào kẻ bên lề.
Trong cuộc chưa hẵn là tốt. Quan trọng là cuộc vui hay cuộc buồn, cuộc chiến hay cuộc tình. Nội dung bên trong sao Tuần mới là quan trọng. Tức là các sao ở trong ây.
Kẻ bên lề lịch sử coi bộ thoải mái hơn là trong cuộc lịch sử, tuy rằng không có tên tuổi gì trong lịch sử, nhưng an tâm không có những từ ngữ xấu xa nằm cạnh tên tuổi của mình.
Kẻ bên lề cuộc tình tất nhiên là kẻ bôi xoá một cuộc tình. Từ đó, TRIỆT là kẻ bên lề của chính tinh nào mới là quan trọng. Người ta làm việc anh đứng bên lề là sao? Đó là TỬ VI TRIỆT.
Cái cần đứng bên lề là KHÔNG KIẾP đứng chung nguy hiểm quá. Bên lề bọn Sát Phá Tham. Ngay các cung cũng thế, có thể triệt xoá và đứng bên lề các cung Điền Quan Di Tật Tài. Xoá bỏ các cung về người vô tình quá.

TUẦN chủ trọn vẹn. TRIỆT chủ nửa chừng. Trung thành và xoá bỏ.
Đây là yếu tố rất quan trọng trong tình cảm vì thế bộ PHỦ TƯỚNG rất kỵ sao TRIỆT Nửa chừng bỏ cuộc, thương yêu nửa vời không đến nơi chốn. TRIỆT có thể gây ảnh hưởng đến các các sao lân cận của TƯỚNG là CỰ MÔN. Vì sao TRIỆT chủ lộ ra trong trường hợp này là lộ ra sự phản bội. TRIỆT còn gây tác động tại vị trí THIÊN PHỦ và THÁI ÂM cả 2 sao đều sợ lộ. Vì âm mưu cũng lộ và che chở cũng lộ. Cho nên 2 sao PHỦ TƯỚNG đều xấu khi có TRIỆT LỘ. Càng xấu hơn khi có KỴ HÌNH. THIÊN PHỦ còn là phủ tạng trong cơ thể lại càng sợ lộ ra ngoài. Cơ thể có thể lộ ra chứ ruột gan lộ ra là có vấn đề nghiêm trọng.
Các ngôi sao khác như TỬ VI là công việc, là địa vị, là bị mật... không bị trừ, bị xoá đi, cũng bị lộ ra những bí mật. Cái bị trừ đi, bị xoá đi là địa vị, là công việc.
Do TRIỆT có tính xoá bỏ, trừ đi còn mang ý chỉ 1 nửa... đóng ở cung an Thân bất lợi.

TUẦN chủ phòng, phòng thủ, phòng ngự. TRIỆT chủ trừ, trị, chữa, trấn, chấn...
Ta thường nghe: Phòng cháy hơn chữa cháy, phòng bệnh hơn chữa bệnh, phòng dịch, trị bệnh, phòng trừ sâu bệnh…. Bạn có thể tìm kiếm thêm ví dụ. Đôi khi người ta còn dùng từ như phòng tránh như phòng tránh tai nạn giao thông. Từ tránh có vẻ như là trừ phải không, nhưng TỬ VI không nên lạm dụng từ ngữ. Vì sao? Chữ “tránh” của chàng VŨ KHÚC. Ví dụ bộ VŨ KHÚC TUẦN được hưởng 2 chữ phòng tránh. Bộ VŨ TRIỆT lại giỏi giải trừ tránh lánh. Nhưng ta đang nói phòng trừ.
So với bộ KÌNH ĐÀ chống và ngăn, bộ TUẦN TRIỆT chủ phòng trừ, phòng trị. Phối hợp 2 bộ sao này bổ sung tính chất lẫn cho nhau, tăng thêm tính hiệu quả.
TUẦN chủ phòng. TRIỆT chủ trừ, trị...
Hai yếu tố này phù hợp với hai yếu tố của KÌNH và ĐÀ. Chống và ngăn. Từ đó bộ TUẦN TRIỆT kết hợp với bộ KÌNH ĐÀ. Gia tăng sức mạnh lẫn cho nhau. Tạo ra nhiều bộ sao như TUẦN KÌNH thiên về phòng chống..., TUẦN ĐÀ thiên về tuần phòng.... TRIỆT KÌNH thiên về trừ và chống, trị và chống, triệt để chống đối..... TRIỆT ĐÀ là thiên về trị ngăn, trừ và cản. 
Chính tinh giỏi sử dụng các sao này là VŨ KHÚC, chủ sự tránh và giải. tất nhiên là đi với bộ KÌNH ĐÀ tốt mới có dấu hiệu thành công. (đi với bộ KÌNH ĐÀ có TUẾ PHƯỢNG). Giải trừ tai ách là VŨ TRIỆT.
TRIỆT HOẢ là cách trị hoả, đó cũng là cách chế ngự, trấn ngự con giận dữ.

TUẦN chủ giáo dục. TRIỆT chủ hiểu biết kiến thức.
Tuần đứng trong nhóm sao Giáo dục đào tạo 
Gồm các sao: 
Tuần chủ giáo dục (tức dạy dỗ) và giáo dục lại kẻ khác.
ĐÀO HOA: chủ đào rạo rèn luyện.
ĐÀ LA: Chủ hướng dẫn.
Đó là 3 sao căn bản của ngành giáo dục. Nếu có mặt TRIỆT chủ hiểu biết, kiến thức đến quán triệt. Chuyển qua triết lý cũng chữ TRIỆT mà thôi.
Nhóm 3 sao kể trên rất cần có XƯƠNG KHÚC văn chương sách vở.
Có HOÁ KHOA chủ chuyên ngành.
Có HOẢ LINH vô hại vì chủ chuyên môn...
Vì thế bộ TUẦN TRIỆT đi với sao văn tinh, khoa tinh. Nằm trong nhóm 3 sao Giáo dục, đào tạo, hướng dẫn kết thành 1 bộ sao hay. Nếu đi với văn tinh XƯƠNG KHÚC không lo ngại gặp THIÊN KHÔNG biến thành cách tam Không.
Hiểu biết kiến thức và được giáo dục tốt cũng phòng trừ được tai hoạ. Do hành vi hay do bệnh tật gây nên. Chứ không phải cúng bái, cầu xin, dâng sao giải hạn đó là mê tín.
Ta chỉ nói đên Tuần giáo dục, TRIỆT kiến thức cho đến quán triệt , tức là “Ngộ”. Khi đi với Văn tinh, Khoa tinh. Đi với KỴ HÌNH kể vô làm gì.

TUẦN chủ QUAN TRỌNG, TRIỆT chủ MIỄN TRỪ:
Thuộc nhóm sao có tầm quan trọng khi có mặt các sao này, tuỳ thuộc Hung, Cát, Hỉ tinh để luận đoán như đại quan, đại sự, rất to lớn về chức vụ, về vui mừng,...
TUẦN: Chủ quan trọng. Như nhân vật quan trọng, sự việc nghiêm trọng…
KHÔI VIỆT: Chủ bộc phát lớn. Như bộc phát công danh tài lộc, bộc phát tai hoạ, dịch bệnh
ĐẠI HAO: Chủ to. Như quan to, đại náo thiên cung, đại hỉ sự, đại tang...
HỒNG LOAN: Chủ lớn. Nói lớn, chức vụ lớn, bằng cấp lớn, vui mừng lớn, tai hoạ lớn
THÁI TUẾ: Chủ rất. Đi với ĐẠI HAO chủ rất to. Chú ý không gặp HỒNG LOAN. Đi với KHÔI VIỆT chủ bộc phát rất lớn, đôi khi thái quá. Đi với TUẦN chủ rất quan trọng.
CĂN CỨ VÀO NHÓM SAO KỂ TRÊN ĐỂ KẾT LUẬN SỰ VIỆC, SỰ CỐ, SỰ TÌNH, CHỨC VỤ….

PHẾ và LẬP:
(Phần này làm sáng tỏ cách xem trọng và coi khinh).
Liên quan đến cách TUẦN xem trong, TRIỆT coi khinh. Nếu TUẦN tốt (đi với cát tinh) mà TRIỆT xấu là đi với KỴ HÌNH tinh, đi với Hung Sát tinh sao TRIỆT chế ngự được. 
Khi TUẦN tốt được tôn trọng được lập nên, dựng nên địa vị, cơ nghiệp, sự nghiệp. Như được lập nên thái tử, lập nên vua mới, lập nên đích trưởng tử.(chứ không phải con trưởng là đích trưởng tử (để giao gia tài, sự nghiệp vì con đầu hư hỏng).... Khi TRIỆT đi với ĐÀ xấu là hạ bệ, triệt hạ xuống. Khi TRIỆT đi với KÌNH xấu là bị triệt để chống đối. Ví dụ.
‘Phế trưởng lập thứ’ là TRIỆT KÌNH, TUẦN ĐÀ. Với điều kiện ĐÀ tốt.
Trên lá số TỬ VI ta dễ dàng bắt gặp 2 vị trí sao TUẦN, bên này TUẦN xấu bên kia TUẦN tốt. Và TRIỆT cũng thế. Vì 2 sao này luôn luôn đứng giữa 2 cung. Và chu kỳ nhịp đời lá số dễ gặp xấu, tốt , xấu. Cá biệt mới gặp 2 chu kỳ liền kề tốt và tốt.
Đến đây ta thấy TUẦN TRIỆT và KÌNH ĐÀ bổ sung cho nhau. TUẦN TRIỆT trọng và khinh. KÌNH ĐÀ nâng lên và hạ xuống. Tuy nhiên đừng hiểu lầm bao giờ cũng thế. Nâng lên cao để dễ... bắn trúng, nếu thấy cái nâng lên cao của mình không tốt đừng dại dột leo lên. Lên cao chon von, chót vót càng nhiều người ganh tị.
Và ĐÀ LA hay TRIỆT có khuynh hướng là đi xuống và bị loại trừ làm kẻ bên lề. Gọi là bộ triệt hạ, hạ bệ. Nó thật sự mang ý như thế khi đi với TANG HƯ KHÁCH lại thêm KỴ HÌNH. Bộ sao này rất kỵ cho TỬ VI. Vì TỬ VI chủ địa vị.
Nhiều người leo trèo lên cao hết nhiệm kỳ đi xuống, chỉ là sự thoái vị, thoái bộ. An vui ra về.

TUẦN chủ đúng, trúng. TRIỆT chủ sai, trật.
ĐÚNG hay SAI làm sao mà biết?
Có những việc đúng sai ta không hề biết. Ta cho rằng đi bên phải là đúng, các nước thuộc Liên Hiệp Anh cho thế là sai. Có những việc trước sai nhưng bây giờ lại đúng. Có những cái trước đúng bây giờ lại sai. Có cái đúng nơi nầy nhưng sai với nơi khác. Có những cái sai với người nầy nhưng đúng với người khác. Có những cái đúng vào thời điểm nầy nhưng sai với thời điểm khác. Với gia đình ta là kẻ sai nhưng xã hội cho rằng ta đúng và ngược lại.
Nhưng cần biết không đúng tức là sai. Ví dụ: anh nói không đúng tí nào tức là sai. Không sai tức là đúng. Anh nói không sai tí nào tức là đúng. Vậy TUẦN đúng chớ gặp THIÊN KHÔNG và TRIỆT sai vui mừng khi có sao nầy, vì nó chủ trừ đi, bỏ đi cái sai. TRIỆT KHÔNG là tốt, là không sai..
Lá số Tử Vi xuất hiện chữ Không sai (tức là TRIỆT KHÔNG. Rất tốt. Vì họ vừa hưởng chữ Đúng của sao Tuần, lại hưởng chữ Không sai của TRIỆT. Không bị ăn số Không trên lá số.
Trong trường hợp có cả TUẦN lẫn TRIỆT là biết phân biệt đâu là đúng đâu là sai. Hay nhất là THAM LANG hoặc PHÁ QUÂN gặp cả 2 sao nầy được kể như là tốt. Nếu có cả TUẦN TRIỆT và THIÊN KHÔNG tức tam Không tức đúng sai lẫn lộn.
Chỉ có TUẦN thôi thì thấy đâu cũng đúng.
Chỉ có TRIỆT thôi thì thấy đâu cũng cho là sai.
Nhưng quan trọng là chính tinh có hợp TRIỆT TUẦN hay không là điều tối quan trọng. Cái đó chúng ta sẽ biết ở sau.
Đúng cũng có cái tốt cái xấu.
Có những cái đúng hay, trúng hay nhưng cũng có những cái đúng dở. Làm đúng, bắn trúng, đoán đúng, trúng cữ, trúng tuyển, trúng số, trúng thưởng.…
Những cái đúng xấu là đúng tội, đúng người, bị bắn trúng… vì Tuần là bộ sao được xem làm trọng, trong ý xấu là trọng tội (Tuần Hình), trọng nạn, trúng nạn (Tuần Kiếp), trọng bệnh, trúng bệnh (Tuần Bệnh Phù)…
Trật, sai thường gây ra tai hại như làm bài trật, sai. Dự đoán sai, chọn người sai, đi sai, đánh sai mục tiêu…Sai đi với lầm là sao THẤT SÁT. Nhưng chú ý TRIỆT tại Thân Dậu là quán triệt, tức không phạm sai lầm.
Làm thế nào để biết, căn cứ vào bàng tinhTUẦN chủ ngoan, dễ bảo… TRIỆT chủ bỏ ngoài tai.
Đây là yếu tố rất giống với bộ Kình Đà, ĐÀ như Tuần và TRIỆT như KÌNH. Từ đó 2 bộ sao nầy pha trộn vào nhau, cho ta nhiều dạng tính tình khác nhau. Tuần Kình, Tuần Đà, Triệt Đà, Triệt Kình. Ví dụ. Thằng bé nầy ngoan không anh?
- Nó ngoan lắm. (có khả năng có cả TUẦN và ĐÀ)
- Nó ngoan lắm nhưng cũng cứng đầu lắm, cái gì không ưa chống lại bằng thích (Tuần và Kình)
- Nó cũng ngoan nhưng có cái nó bỏ ngoài tai (TRIỆT ĐÀ)
- Chao ơi! Nó cứng đầu lắm (Kình) nó bỏ ngoài tai (TRIỆT) nói cũng vô ích thôi.
TRIỆT bỏ ngoài tai vì TRIỆT cho là cái đó sai, không đúng nên chống đối lại một cách triệt để, từ đó ta có những con người có tính cương quyết khi chống đối. Vấn đề còn lại là Chính tinh tọa thủ có hợp và dùng được bộ TRIỆT KÌNH không mà thôi.
Tuần là ngoan nhưng lãnh đạo thì không thể ngoan được vì thế TỬ VI không thích hợp với TUẦN và càng không thích hợp với TRIỆT vì TRIỆT chủ loại trừ ra, bị xem nhẹ, coi khinh, bí mật bị lộ…
Cũng từ Tuần ngoan, Triệt trừ bỏ mà như trên mà Tuần là mẫu người chung thủy, trọn vẹn. Còn Triệt chỉ nửa chừng rồi thôi, rất kỵ gặp THIÊN TƯỚNG, đóng tại cung an Thân dễ nửa chừng xuân, thân thể không vẹn toàn vì bị trừ.
Bộ Tuần Triệt và bộ Kình Đà. Một bộ trôi xuôi, một bộ trôi ngược. Tuần phòng khắp lá số TỬ VI lưu động theo năm tháng ngày giờ, khiến chúng ta luôn luôn có việc phải quan phòng, có việc phải theo, có việc phải chống…

TRUNG THÀNH và LOẠI BỎ, LOẠI TRỪ:
Tuần chủ sự trung thành, tận tâm, tận trung, trọn vẹn... càng trọn tình bao nhiêu cái vòng tay thương yêu càng hẹp lại bấy nhiêu. Vì không thể cùng lúc thương yêu nhiều người được. Trái với TRIỆT là loại trừ, xoá bỏ, đuổi đi, dấu delete, dấu trừ... cái cần xoá cần trừ là cái ác nhóm hung tinh SÁT PHÁ THAM là KHÔNG KIẾP. Cho nên TRIỆT đương đầu với THIÊN TƯỚNG là xoá bỏ một cuộc tình. và có thể

ảnh hưởng đến CỰ MÔN lúc đó là CỰ TRIỆT là lộ ra sự phản bội. Và THIÊN TƯỚNG lúc đó là ngoại tình. Vì TRIỆT chủ bên ngoài. Là kẻ bị lộ mặt, vạch măt, lộ diện. Nếu TRIỆT đứng giữa 2 sao TƯỚNG LƯƠNG có liên quan đến vấn đề tiền bạc.
Nhóm SÁT PHÁ THAM rất cần đi với cả TUẦN TRIỆT chớ gặp thêm THIÊN KHÔNG, sẽ rơi vào trường hợp không còn biết đúng sai nữa. Chú ý là TRIỆT gặp, hay đồng cung KHÔNG KIẾP là hay. Nhưng TUẦN đóng với THIÊN KHÔNG là xấu không còn trung thành trọn vẹn nữa. Đó là bí quyết.
Nếu xét về chuyện tình cảm sao kỵ TRIỆT nhất là THIÊN TƯỚNG. Nhì là THIÊN PHỦ.
Xét về công danh sao kỵ TRIỆT là sao TỬ VI, vì khi cần thiết người ta cũng sẵn sàng xoá bỏ địa vị. Điều này cũng có thể hay với người này nhưng dở với người khác. 

TRIỆT ĐỂ TUÂN THỦ:
Tuần chủ tuân thủ. TRIỆT chủ triệt để. Kết thành 1 bộ tuân thủ triệt để.
Đây là bộ sao rất cần thiết để chế ngự nhóm hung tinh Sát Phá Tham. Làm cho nhóm sao này không thể manh động. Đi đúng hướng biết cái gì cần ham, cái gì cần phá, cái gì cần đoạt. Các chính tinh không kỵ bộ Nhị Vong càng lộ ra các đức tính tốt đẹp như trung thành, hiểu biết, tuân thủ triệt để.... Lương tâm (THIÊN LƯƠNG) đạo đức (LIÊM TRINH) kể cả tài năng (VŨ KHÚC, THIÊN CƠ) cần bộc lộ của TRIỆT mọi người mới biết đên. Ngay cả VŨ KHÚC là sao có tính bạo lực cũng cần TRIỆT.
Tuy nhiên bộ sao này sẽ hỏng cách khi ngộ thêm THIÊN KHÔNG tạo thành cách tam Không. THIÊN KHÔNG đã lôi kéo các sao này vào 1 phe nhóm Không Vong. Từ đó TUẦN không còn trung thành, TRIỆT ưa loại trừ xoá bỏ không đúng nơi đúng chỗ. Tạo cảnh không vong, vong tình không nhớ đến những điều tốt đẹp. không tuân thủ triệt để lại tuân theo kẻ xấu.
Bộ này còn kỵ bộ KỴ HÌNH. Với ý, vi phạm pháp luật, phạm phải những điều mọi người tuân thủ triệt để.

TUẦN THUỘC NHÓM SAO ẨN. TRIỆT THUỘC NHÓM SAO LỘ.
Các sao ẩn gồm có:TỬ VI, THÁI ÂM, ĐÀ LA, TUẦN.
Các sao lộ gồm có: THIÊN LƯƠNG, THÁI DƯƠNG, KÌNH DƯƠNG, TRIỆT.
Dĩ nhiên nhóm sao ẩn, lộ thích hợp, thích nghi với những sao cùng nhóm. Tăng tính chất cho nhau. Cho nên có những người thích ở ẩn có những kẻ ưa ồn ào ưa lộ diện. Cái gì thái quá cũng không tốt. Chẳng lẽ suốt ngày cứ như Hàn lộ lộ nhưng không thể suốt đời như vậy được.

Trong Cơ Thể: TUẦN chủ sự TUẦN HOÀN, HẤP THU...TRIỆT chủ sự ĐÀO THẢI…
Như ‘Tuần hoàn máu’, ‘Tuần hoàn não’..., ‘Hấp thu chất dinh dưỡng, hít vào... Đào thải chất cặn bả, chất độc ra ngoài cơ thể, chỉ sự thở ra...
Vậy thì TUẦN tốt là hít thở bầu không khí trong sạch, ăn uống thanh sạch… từ đó ít vướng phải binh tật. TRIỆT tốt là loại trừ đào thải tốt nhưng đóng tại Thân bất lợi như đã nói, ở Tật là hay như câu phú người ta thường nói: 
“TRIỆT TUẦN đóng ở Ách cung, 
Tai nào cũng khỏi hạn phùng cũng qua” 
nhưng chớ gặp THIÊN KHÔNG dù có TRIỆT ở Kim cung cũng rắc rối về sự đào thải.

VẬT DỤNG:
TUẦN: Sợi dây dạng tròn, đồ vật hình tượng có dạng tròn, hình vuông hoặc hình gì cũng được miễn sao nó nối tiếp nhau, khép kín là con đường nối tiếp nhau liên tục hoặc khép kín. Tuần là bờ rào, là tường vây, là căn phòng ta đang ở, là xâu chuổi ngọc tốt xấu tùy thuộc Hung Cát tinh là còng số 8 là vòng nhắm (lỗ chiếu môn của súng) để bắn trong súng bắn tỉa, là từ lỗ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi mà các chiến binh ai cũng biết. Chỉ còn chờ nghe khẩu lịnh là bắn.
TRIỆT: Là con đường cụt có lối vào mà không có lối ra, không thông suốt. Là cây thước kẻ, là những vật dụng có tính sàng lọc. Hoặc có dạng hình vuông, có góc cạnh như tam giác.
Thành ngữ Mẹ tròn con vuông. Mọi cái đều tốt đẹp.
Trong đời sống ta thường gặp Tuần Triệt như là: Chiếc xe có các bánh thì tròn là Tuần để bon bon chạy và Triệt là cái thắng.

TUẦN TRIỆT dị biệt bổ sung cho nhau:
TUẦN TRIỆT có những điểm dị biệt nhưng những điểm ấy bổ sung cho nhau. Đừng quên là TỬ VI xây dựng nên từ thuyết Âm Dương. Cái bên này cần TUẦN cái bên kia cần TRIỆT. Cái này cần tròn làm bánh xe thì cái bên kia cần vuông vức hay thẳng hàng làm trục xe, làm thân xe. Trong đồ vật ta thấy hiện tượng đó rất nhiều. Trong đi lại cũng thế đi loanh quanh cũng trở về nhà như 1 sao TUẦN, đi xa là sao TRIỆT. TRIỆT còn giống như con lộ không có lối đi vòng, đường cụt, con đường rất xa. Nếu có kẻ trọng tất có kẻ khinh, có vào tất có ra. Thấy cái sai để thấy cái kia đúng. Nếu không thấy sai làm sao biết cái này đúng....
TUẦN TRIỆT bổ sung cho nhau và gặp thêm THIÊN KHÔNG lại thành một cách tam KHÔNG xấu, không còn tuân thủ điều tốt đẹp nữa.


ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG của Tuần và Triệt.
CHỦ TRỐN:
Đi với các sao di chuyển tạo ra lưu vong, đào tẩu, đi lánh, đi tránh, tị nạn, bôn đào…phù hợp một số sao như VŨ KHÚC, CỰ MÔN, THAM LANG, ĐÀO HOA, LƯU HÀ, THIÊN MÃ. TUẦN TRIÊT đi với nhiều sao của nhóm ‘đào thoát trốn chạy’ tức là từ chạy đến chạy. Lúc đó TRIỆT LỘ là trên đường tị nạn, trên đường đào tẩu. Ngoài ra còn có những cái trốn khác như trốn tình yêu, trốn nợ, trốn trách nhiệm... Chứ không thuần tuý là trốn là phải chạy..

CHỦ MẤT, CHỦ VONG.
Như mất người, mất của, mất địa vị, mất sức khoẻ, mất tình cảm, uy tín, mất tổ quốc, mất quê hương, cao nhất là mất mạng…phù hợp với các sao mất mát khác là THIÊN KHÔNG, THẤT SÁT. Trên lá số TỬ VI ta có thể tìm thấy một số vị trí chịu sự tác động cả TUẦN lẩn TRIỆT. Từ vị trí này ta có thể tìm thấy sao THIÊN KHÔNG ta gọi đó là bộ TAM KHÔNG rất kị gặp TỬ VI, bộ ÂM DƯƠNG sáng có thể đưa đến mất mạng. Vì thế hạn chết thường gặp ở 2 sao nầy lại có thêm lưu Tuần, lưu Triệt. Nhất là lưu tại Thân, Mệnh.

CHỦ QUÊN. SỰ QUÊN LÃNG:
Từ chữ”Trốn” qua chữ “Vong, Mất” tiếp là chữ “Quên, như quên tình, quên nghĩa, quên tổ quốc, ông bà, cha mẹ, vợ chông, anh em, con cái…bỏ quên đồ vật... Có thể đưa đến bệnh lý. Bệnh hay quên khiến trở ngại cho việc học tập, căn bệnh của người già. (Quên thiên về sao TRIỆT, đối với TUẦN yếu tố nầy vẫn có do tính chất tập trung mạnh của sao này. Nhưng khi có tam Không yếu tố quên trở thành mạnh mẽ. là cái quên, cái nhớ, hoặc cố tình, cố ý. Khi hình thành cách Tam Không nạn nhân của sự quên lãng, bỏ sót. Không nhớ là để quên ở đâu. Thậm chí tên mình cũng không nhớ. Vì thế bộ PHỦ TƯỚNG rất kỵ TRIỆT, TƯỚNG ngộ TRIỆT là cách vong ân, vì quên không đền ơn đáp nghĩa, không thương yêu nữa, không giúp đỡ nữa. Cùng ý nghĩa như trên THIÊN PHỦ ngộ TRIỆT là không vỗ về an ủi nữa, không che chở nữa... tuỳ thuộc vào đi với KỴ HÌNH tinh tính chất càng mạnh. Còn tuỳ thuộc vào các sao cùng liền kề bên cạnh PHỦ TƯỚNG là CỰ MÔN, THIÊN LƯƠNG hay THÁI ÂM cho ta thêm những quyết đoán khác..
TUẦN và TRIỆT có 3 điểm tương đồng quan trọng là trốn, mất và quên và nó hợp với THIÊN KHÔNG KHÔNG VONG thành bộ sao tam Không, tam Vong đem lại những cái không may, không còn, cái vong, cái mất mát và từ đó chìm vào quên lãng của người đời.

TUẦN TRIỆT có vị trí đắc ý, đắc địa không?
“HOẢ phùng KHÔNG tắc phát. KIM phùng KHÔNG tắc minh”
“TRIỆT đáo Kim cung, TUẦN lâm Hoả địa”
“TRIỆT mà gặp được Kim cung. Tinh thần thanh thản ung dung muôn phần.”
Trên là 3 câu phú sưu tầm được. Tuần lâm Hỏa Địa con nhà Giáp Thân, Giáp Ngọ được hưởng cách nầy (tức từ Giáp Thân đến Quý Tị, Giáp Ngọ đến Quý Mão). Triệt đến Kim cung các tuổi Giáp, Kỷ mới có. Tính ra chỉ có 2 tuổi ưu tiên được cả Tuần lâm và Triệt đáo là Giáp Thân, Kỷ Sửu. Giáp Ngọ, Kỷ Hợi.
Tuần đến hỏa thì phát, Triệt đến kim thì sáng. Tuần Phát đây là phát trọng vọng, phát sinh sự dạy dỗ tùy thuộc vào nội dung của chính tinh như VŨ thì phát tài, TƯỚNG thì phát tướng, tương trợ thương yêu… nhưng đi với Hung Kỵ Hình vẫn là phát súng, phát tai phát hoạ, phát lộ nói chung tốt thì rất tốt, xấu thì rất xấu. Nơi phát mạnh, cũng như TRIỆT tại Thân Dậu vào giờ bắt đấu tối rất cần sự sáng sủa lộ ra, lộ ra có tốt đẹp hay không, báo hiệu một đêm yên vui.
Triệt được hưỡng ưu đãi, ưu tiên được ngoại lệ miễn trừ, bất khả xâm phạm, tinh thần minh mẫn, thông minh phát sáng uy danh, xóa bỏ tị hiềm. Đỉnh cao nhất là chữ "Ngộ", chữ "Triết". Cũng vẫn kỵ gặp Hóa KỴ tuy không sợ KHÔNG KIẾP và nội dung chính tinh trong đó nhất là THIÊN TƯỚNG (Tôn Tẩn là thí dụ điển hình, bị Bàng Quyên tẩn cho một cái thành thương binh may chưa trở thành liệt sỹ).
Thực tế TRIỆT hay ở Thân với tuổi Giáp là TRIỆT PHI LIÊM trừ bỏ đi, xóa bỏ đi những chia rẻ, thị phi, sai trái của sao nầy… ở Dậu lộ ra những vui mừng như hoa đơm bông kết quả.
Với Kỷ tại Thân là cách Khôi Phục hay nhất, ở Dậu là đại lộ lớn đang chờ.

MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN:
“TUẦN, TRIỆT định yếu đắc dụng. THIÊN KHÔNG tối vi khẩn yếu”
Đây là câu phú được người viết yêu thích nhất. Hầu như nói đến các sao kể trên người ta chỉ nhìn thấy cái xấu của nó mà không thấy cái tốt, hầu như không biết cái tốt của nó là gì lấy đâu để đề cao (Kình) và cứ thế hạ thấp (Đà) gây oan ức cho bộ sao hay Đúng Sai, Giáo Dục và Hiểu Biết, Tôn Trọng và Miễn Trừ, Phòng Trừ tai họa… ám ảnh Không còn và Mất. Có chăng không còn khổ, mất nghèo thì có. Đi với Cát Tinh, Hỉ Tinh tăng giá trị các sao lên cao. Trừ khử được hung họa vì thế nó đắc dụng. TRIỆT là lá chắn thành đồng, TUẦN là tập trung trí tuệ, sức ngưới sức của để phát huy thế mạnh. Chỗ đắc dụng của 2 sao nầy thì nhiều, phần tác họa của nó thì ít.
Cũng như THIÊN KHÔNG phát huy cái lắc đầu đúng nơi đúng chỗ. Sai ư? Không sai đâu tức là hưởng cách đúng ngon lành (cách KHÔNG TRIỆT). Nghi ngờ ư, ghét ư, cấm ư? Có THIÊN KHÔNG vào khỏi bị nghi ngờ, ghét bỏ (cách KHÔNG KỴ). Đến đây khối kẻ thèm ông THIÊN KHÔNG chỉ sợ ông đứng không đúng nơi đúng chỗ.
Câu nầy còn hay ở điểm định yếu đắc dụng, chứ không đắc địa là quan điểm ưa thích của Bửu Đình, ta cần biết rằng có một số chính tinh bất lợi với TRIỆT.

“TUẦN, TRIỆT đương đầu thiếu niên tân khổ
TAM KHÔNG độc thủ phú quí nan toàn”.
Đương đầu tức ngay chình ình tại cung MỆNH và cung đại hạn thứ nhì cũng đi qua TRIỆT hay TUẦN, tức liên tiếp 2 đại hạn đều bị TUẦN TRIỆT. 
Vì 20 năm liên tiếp bị ảnh hưởng của sao nầy trong đó có những năm có lưu Kỵ hội họp. Nhưng nếu đại hạn thứ nhì lại đi qua cung khác thì tuổi thành niên rõ ràng dễ thở hơn nhiều. Khi bị đương đầu lại chui sâu vào 20 năm trong đó ta dễ gặp hoàn cảnh mất cha mẹ, phải gánh lấy công việc của cha mẹ, hoặc của anh em trong suốt 20 năm trời quá dài cho một đời người.
“Tam phương xung Sát hạnh nhất TRIỆT nhi khả bằng. Tứ chính giao phù tối kị KHÔNG nhi trực phá”
Câu nầy dễ gây ngộ nhận là TUẦN cản ngăn Cát tinh. KHÔNG là THIÊN KHÔNG khi Cát tinh giao hội ông THIÊN KHÔNG lắc đầu nói không, không phải quyền đâu, không phải là lộc đâu, không phải là khoa học đâu… THIÊN KHÔNG là ngôi sao phản tác dụng đi với tốt biến thành xấu. Câu phú trên là một câu đối hoàn chỉnh, nên khi bên nầy nói TRIỆT thì bên kia nói TUẦN, từ đó gây ngộ nhận KHÔNG nầy là TUẦN rất có lý. Nhưng khi đặt ra một câu phú ở thể đối là tay rất tài giỏi. Điiểm yếu của Tuần là thu nhận tất cả cả tốt lẫn xấu. Cũng như khi ta mở cửa đón khách vào mua hàng, khách tốt cũng có và khách xấu cũng có. Cũng như khi hít không khí vào dưỡng khí có, thán khí có, virus đủ chủng loại. Với Tuần thì tốt hay xấu đều chấp nhận tuốt. Chẳng lẽ tiền tài, danh vọng, sự tốt đẹp lại không chấp nhận lại đi chấp nhận sự xấu xa.

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2022

Lá số tử vi của Phật Thích Ca do cụ Thiên Lương kỷ thượng từng biên soạn


 Dẫn nhập : Vài danh từ cần đuợc ghi ra để giúp độc giả theo dõi bài viết kế tiếp dễ hơn .

BC = before Christ = trước khi chúa Jesus sinh ra đời

Đôi khi viết BCE  (before Common Era) cũng cùng nghĩa ở trên

AD = Anno Domini = kể từ khi chúa Jesus ra đời (Anno = năm, Domini  =Chúa)

Năm nay là 2008 tức 2008 ẠD, tức năm thứ 2008 kể từ chúa Jesus ra đời (thật sự không phải như vậy vì ngài Jesus sinh ra truớc đó nên không thể cho rằng Jesus sinh vào năm 1 AD được) 

Đức Phật xuất hiện trước chúa Jesus nên những ký hiệu thấy như

560 BC (before Christ) hay 560 BCE (Before Common Era) có nghĩa là năm thứ 560 trước Công Nguyên (tức lịch hiện hành)

Tại sap có đề tài này ?

Có người chất vấn về sự xác thực của 1 lá số trong cuốn sách Tử Vi Nghiệm Lý xuất bản năm 1974 tức 34 năm về trước, cho rằng lá số này không đúng, chỉ đọc cho vui vì 2 điểm sau :

1. Cung Phúc bị Triệt thì làm sao mô tả dòng dõi vuơng triều của thái tử Tất Đạt Đa lúc đó

2. 

Lá số của đức Phật trong cuốn TVNL của Ô. Thiên lương thì tôi có thể suy đoán được, nhưng phải nói trước là tôi không tin lá số này đúng.

Về năm thì lá số này Ông Thiên lương dùng mốc 563BC tương ứng Phật lịch là năm 2517 tương ứng công lịch là năm 1973 . Tra bảng hay tính toán một chút thì ra năm tương ứng là Mậu tuất.

Một trong 2 người lên tiếng  cáo buộc, rất vô lý bắt bẻ cách dùng chữ Phật tử trong đoạn của HC (chính là 1 vị Đại Đức của Phật giáo trong vụ lá số đức Phật) .

HC đã viết :  Cụ Thiên Luơng tiếp đón 1 Phật tử nhờ giải lá số Mậu Tuất vào năm xưa và cụ cũng là 1 người có tâm Phật nên rất hoan hỉ dùng nó triển khai thuyết Thái Tuế với thế Hồng Không tu hành trọng đạo ...

Trở lại đầu đuôi câu chuyện, vị Đại Đức nào đó đem lá số của đức Phật mà ai đó  

Van viết :

Không đúng, không phải 1 phật tử  mà là một Đại đức . Không biết nó đưa cho ông xem cái gì ??? 

 

HC hoàn toàn kinh ngạc trước sự chấp nê của Van : Đại Đức tức là 1 Phật Tử đâu có gì khác biệt, Đại Đức cũng chỉ là 1 người có quyền hành hơn Phật tử thông thường, nhưng tất cả từ Hòa Thượng, Đại Lão Hòa Thượng xuống người trong chùa đều là những đứa con của Phật.  Van cũng không đọc đoạn sau HC viết về vị Đại Đức đó trao tài liệu cho cụ Thiên Luơng !

 

Không biết nó đưa cho ông xem cái gì ??? 

 

HC xóa đoán bình luận về câu viết trớt quớt của Van ám chỉ Nó tức là Chính Ấn và ông tức HC.

 

HC


Lá số đức Phật trong sách Tử Vi Nghiệm Lý trang 67 thấy ghi nam nhân Mậu Tuất sinh ngày 8 tháng 4 AL giờ Ngọ, mệnh tại Hợi đắc Thiên Phủ trong thế Hồng Không tu hành trọng đạo khôn ngoan hiểu biết !

Thật sự lá số này phản ảnh đức Thế Tôn ?

Trước khi trả lời câu hỏi này với phần biện chứng, người thính mũi tò mò nhất trong làng bói toán mạng ảo cần phải đi tìm các tin tức về đức Phật nhất là lúc sinh ra .  Sau đây là các thứ biết được về ngài, dĩ nhiên dựa trên các DATA lập đi lập lại không có nghĩa là phải đúng !

1. SInh trưởng từ gia đình vua chúa, cha là tiểu vuơng của 1 nước nhỏ miền Bắc Ấn Độ

2. Năm sinh vẫn chưa xác định rõ ràng, duy nhiều học giả cho rằng ngài sinh 560BC (sinh 560 năm trước Công Nguyên)

3. Ngày sinh ra là ngày trăng rằm của tháng 5 DL.

4. Giờ sinh có chỗ nói là giờ Tý, có chỗ nói là trời vừa sáng

5. Lúc sinh ra thì đức Phật biết đi liền, 7 bước trên bông sen, chỉ tay lên trời tuyên bố "Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn.". (HC tin đây là huyền thoại không nên tin).

Sau đây là trích đoạn từ các truy tầm trên mạng đem lại :

Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch.

 Wiki_answer: I found different years cited as Buddha's birth year. They were 560, 563, 564, 623 and 624 BCE. Almost all sources cited the full moon of May as the birth date, although 2 sources cited April 8.

The May full moons for these years are: May 7, May 11, May 21, May 14 and May 25. April 8 was a full moon in 560 BCE.  (chỉ có năm 560 mới là năm có tháng 5 trăng tròn vào ngày 8 tháng 4 AL)

Tạm dịch: đức Phật có thể sinh vào 1 trong 4 năm sau : 560, 563, 564, 623 and 624 BCE. Riêng chúng ta biết đức Phật sinh vào ngày trăng tròn tức phải là ngày 8 tháng 4 năm 560 trước Công Nguyên (tức trước khi Chúa Jesus ra đời) .

Dùng năm chết suy ra năm sinh:

Ngay cả năm chết cũng không rõ ràng, nếu cho rằng 560 BC là năm sinh thì năm chết phải là 420 vì 560 tiến tới 420 tức 80 năm là tuổi thọ của đức Phật .

Hãy đọc đoạn từ Wikiepedia: the majority of those scholars who presented definite opinions gave dates within 20 years either side of 400 BCE for the Buddha's death, with others supporting earlier or later dates.

Tạm dịch : đám đông các học giả xác quyết Phật chết khoảng 20 năm trước hay sau mốc 400. Tức năm 420BC hay 380BC.

Nếu dùng 560BC là năm sinh của đức Phật thì năm chết sẽ là 420BC rất khớp với đoạn trên vì đức Phật thọ khoảng 80 tuổi !

Còn tiếp,

HC


Sự kiện nhiều người, nhiều nguồn cho là đức Phật sinh vào ngày trăng rằm (tức đêm đó chị Hằng mặt tròn quay) được xem như thật . Đọc các sách, truy các diễn đàn đều thấy ghi ngày 8 tháng 4 AL.  Có chỗ ghi rõ hơn đó là ngày của tháng 5 và nói thêm đây là ngày 8 tháng 4 AL theo lịch Tàu tức Âm Lịch mà theo đó chỉ có năm 560 BC mới có ngày 8 tháng 4 AL là ngày trăng rằm tức đức Phật sinh vào năm Canh Thìn, ngày 8 tháng 4 AL, giờ Ngọ (1).

Đúng sai tuyệt đối không thể chắc được.  Nếu ngày 8 tháng 4 AL đã sai từ cơ bản thì kể như công sức của lão kỳ viên trôi theo sông ra biển.  Nhưng con người thường sống bằng sự mơ ước và tin tưởng, nếu không nghĩ mình đúng thì làm gì có sự tích Ngu Công năng lực trì chí như con ngựa thồ đất đá đêm đổ đêm ngày trong lúc đục núi làm đường.  Ngày nay chúng ta lại thấy anh DealingHonestly cũng ôm con Mã trong mệnh có cả Song Hao đắc cũng liên tục bỏ công chứng tỏ hồ sơ pháp lý đáo tụng đình, anh ấy lại dùng cái avatar đầu ngựa nhìn thẳng nhìn cao, đâu khác gì một Ngu Công Việt Nam thời nay.

Con người tự làm khổ mình qua những phép tắc, suy nghĩ cứng ngắc giáo điều, ngay cả tu hành chưa tới thì cũng loay hoay trong cái vỏ cứng nhám mà không thẳng lên bầu trời vô tận thấy tất cả như đại gia Kim Dung vua truyện kiếm hiệp ôm Tử Sát lừng lẫy kiêu hùng tại Tỵ nhờ Đào Không Thiếu Duơng mà khôn lanh hơn người nhưng sự sáng tác ngoạn mục rất kỳ ảo lạ lùng tuyệt vời văn chuơng sáng tỏa Bắc Phuơng là nhờ cung Tật chứa Đồng Âm tại Tý chiếu sang cung Phụ Mẫu nên thừa hưởng bút pháp như thần lai láng trử tình, ngay từ khi tuổi 15-16 đã trở thành 1 ngôi sao có hạng khi vào DH cung Phụ Mẫu sát nách cung mệnh chỉ vì bộ Đồng Âm sáng quá hội Cự Nhật quan phong tam đại khí thế hùng hồn mà trước giờ chúng ta chưa thấy ai hơn được ông về mặt phong phú trong sáng tác các bi hùng ca của 1 thế giới ảo tưởng xa vời nhưng rất thật !

HC

(1) đức Phật Thích Ca có lẽ thật sự sinh ngày 8 tháng 4 AL giờ Ngọ năm Canh Thìn sẽ được phân tích bởi ngòi bút môn Bo'i Toán vi vút nhất trên mạng ảo ngày mai !


Vấn đề nhạy cảm của đề tài lá số Đức Phật,

Năm xưa, cụ Thiên Lương trình lá số đức Phật trong cuốn Tử Vi Nghiệm Lý, chắc cũng làm phản cảm vài người mặc dù cụ TL rất cung kính trong biện chứng số mệnh của Như Lai ghi nhận qua bản lá số.

Vậy ai đó khắc đúc tượng đức Phật đẹp mê ly, có chắc đã trúng như người thật không, cho dù tượng đẹp đâu khác gì văn sĩ đê thơ khen tặng thần tình yêu .

Tán tụng đức Phật,  xem là phản cảm, vậy đục bỏ tượng Phật tại Afganistan thì phải giết nhau hay sao?  Con người càng tu thì cái ngã càng lên cao.  Lão ngoan sinh hoạt tại 1 diễn đàn Phật giáo chứng kiến các người ngộ Không cư xữ chấp nê không khác gì người bình thường!

Khổng Tử xấu xí như tên côn đồ (lời tự thuật), tổ Bồ Đề Đạt Ma râu ria hung tợn, Mạc Đỉnh Chi hình tướng xấu xí, đức Phật da ngâm đen giống Ấn Độ ... tất cả chỉ là ngoại hình không thật.  Nhưng ai mô tả như sự thật thì người đó xấu lắm hở ? Vậy có ai dùng hình Phật xấu khác hẳn vẽ đẹp thanh tú phúc hậu trước giờ, thì cho rằng người đó khinh cả 1 tôn giáo và đòi chém giết người đó hay sao.  Ai đó phân tích Mohammed giáo chủ chỉ là 1 tiểu thương với bịnh giật kinh phong có tài làm thơ nhưng đây là thơ của quỷ (Satanic verses) thì nguời đó quá đáng, cho dù cũng có lý phần nào, nên đành trốn chạy còn không sẽ bị giết bởi đám Hồi giáo cực đoan.

Tự mình đã xem trọng cái mình đã biết, cái mình tin là đúng .

Ngay cả tôi lấy nick Đại Bi cũng bị nguời si mê cho là sai trái trong khi đó nguời đó coi bói toàn hăm he cô bị Vong, cậu bị Vong ... nói như vậy có đúng là 1 Phật tử hay không?  Nhưng đến khi nói giọng đạo thì giở mặt đạo đức và trù ẻo thì hay hơn ai cả.

Lão ngoan này sinh hoạt tại 1 diễn đàn khác, từng chất vấn những người tu mấy chục năm, tuổi đã 70, về những thứ phản bác của chính người đó  làm người đó phải chịu im và bỏ đi !

Ai không thích thì đừng đọc, may mà lão ngoan tán tụng đức Phật, còn không thì chúng vào chúng hét điếc cái lổ tai luôn ! 

HC

Bây giờ lão ngoan không thích viết thêm cho chủ đề này nữa.  Công sức bỏ ra suy nghĩ dàn dựng, truy lục tin tức  ... người bình thường không ai làm được chuyện này .

Chắc CindyNg và ToanTam dzui lắm hở ! Tôi đã mất hứng rồi, dàn bài và bản nháp đã viết xong 2 ngày trước, lưu trử bằng wordpad, chắc để cho mối nó ăn ! Lão ngoan chẳng sợ ai cả, chẳng phải tự ái, từng tuyên bố sự ngu si của con người như các cây nấm nhảy lung tung ... và tôi không muốn là cây nấm to nhất !

Tu hành vẫn bị số mệnh chi phối như thường: hòa thượng Hư Vân đoán trước mình sẽ bị kiếp nạn, dặn tăng chúng lúc xãy ra ngài bị lao động khổ cực mà các đệ tử đôi khi cần tránh né vì chế độ áp chế tôn giáo (CS Trung Quốc sau 1949).

Tổ Huệ Năng phải mang Y Bát chạy thoát đám tăng cuồng tín, ông cha Công Giáo bị ung thư xin về VN chết trên quê huơng, sư tổ tu xạo (Long Hoa Nhị Phật Hội) sinh năm Mậu Thìn (1928) vẫn bị cung Tật Ách hành hạ ...Huệ Năng gian khổ tu hành, văn phong của ông khí lực đầy tràn, tuổi trẻ cực khổ, ngay tới trung vận cũng phải tìm cách ẩn cư cho qua cơn khó (Vũ Sát cư Mão).

Hòa Thượng Thích Đôn Hậu uy tín với trọng trách, chính là Thiên Phủ cư Dậu trong thế Tứ Linh ! Còn nhà sư tranh đấu thời kỳ đệ I Cộng Hòa Thích Trí Quang phải chăng là Tử Tham cư Dậu theo sách của cụ Thiên Luơng hay theo tự truyện của chính ông Trí Quang tức mệnh VCD cư Thân đắc Cự Nhật và cung An Thân hưởng bộ Cơ Luơng nên giờ đây chuyên nghiên cứu kinh điển PG ? 

Các bạn không thấy Trung Cộng đàn áp Tây Tạng và tu sĩ Mật Tông phải bỏ xứ đi, trong đó có Đai Lai Lạt Ma hay sao, phải chăng số kiếp lưu lạc của ngay lá số Đại Lai Lạt Ma là như thế đó ?

Ngay trong nước các nhà tu hành PG như Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang cũng chịu 1 cảnh ngộ nào đó trong khi Thích Thanh Từ, Thích Nhất Hạnh lại được ưu đãi - phải chăng số mệnh của họ đã vẽ ra  những con đường định mệnh khác nhau phản ảnh sự chọn lựa cá nhân ? 

laaicungduoc có đăng bài đồng quan điểm với HC (sau đó xóa rồi bởi laaicungduoc) chứng kiến các người tu hành vẫn bị số mạng chi phối !

HC

=======================================

Sau đây là chuơng trình hành động (tức suy nghĩ bóp đầu dựng tóc gáy) để truy tầm năm tháng ngày giờ sinh của đức Phật .  Hi vọng sau khi chúng ta đồng tình với phuơng án này thì tất cả sẽ thấy trường phái chính tông Tử Vi Việt Nam là số một như 4 chữ Đệ Nhất Kỳ Viên. 

Phuơng án tìm kiếm bao gồm 2 khâu:

1. Cứu xét các dữ liệu lịch sử để xác định năm tháng ngày giờ sinh.

Như đã trình bày ở trên, qua vài bài viết,

Thái tử Tất Đạt Đa tức đức Phật sau này, sinh vào ngày rằm trong tháng 5 DL nào đó của niên kỷ thứ 5 trước Công Nguyên (tức trước chúa Jesus ra đời) .

Ngày rằm 8 tháng 4 được nhắc đến nhiều lần qua sách vở.

Chỉ có năm 560 BC (560 năm trước Công Nguyên) mới có ngày 8 tháng 4 AL là ngày rằm.

Giờ sinh có chỗ ghi giữa đêm, có chỗ ghi tờ mờ sáng.  Xem ra chúng ta phải dùng lăng kính Tử Vi để quyết định giờ sinh tức chúng ta phải nghiệm lý các cách bộ để xem chúng có phản ảnh thân thế, tư tưởng, tính tình, và sự nghiệp của đức Phật Thích Ca, từ đó  xác định cung mệnh như thế nào, tính ra giờ sinh. Nói cách khác, khi chúng ta cho rằng năm 560 BC (Canh Thìn) ngày 8 tháng 4 AL có nghĩa là chúng ra sẽ lựa lá số nào hợp lý nhất trong 12 lá số của ngày sinh, tức sẽ quy ra giờ sinh, dựa theo phuơng án ghi theo sau đây.

2. thân thế, tư tưởng, tính tình, và sự nghiệp

Còn tiếp

Tôi xin chép lại những thông tin trong trang web mà có bạn đã giới thiệu.
--------------
Nhân dip Đại Lễ Phật Đản năm Quí Mùi 2003, tôi xin gửi đến quí độc giả bốn phương, nhất là Phật Tử, hãy cùng tôi tìm hiểu và xác định ngày nào là ngày Đại Lễ Phật Đản, tại sao tôi lại trở lại vấn đề này, vì có một số người hỏi tôi, bằng thơ, điện thoại, E-Mail và yêu cầu tôi giải thích, thực ra tôi không đủ trình độ để xác định ngày nào là ngày Đại Lễ Phật Đản chính thức và đúng, nhưng tôi cũng cố gắng sưu tầm biên soạn ra tư liệu này cống hiến quí vị Phật Tử hiểu rõ. Nếu quí Chư Tôn Đức Tăng, Ni và các vị thiện trí thức cao minh nào có các dữ kiện khác kính xin chỉ giáo.

             Đây là một sự kiện lịch sử, là một nghi lễ trọng đại nhất trong đạo, đối với ngày xuất thế của Đức Thế Tôn, ngày lễ này đã được lưu truyền từ ngàn xưa, ngay từ khi đạo Phật ở Ấn Dộ mới truyền sang các nuớc phương Đông, những bộ kinh Phật phiên dịch từ Phạn văn ra Hán văn, ở đơiø Đông Hán (Trung Quốc), bộ nào nói về lịch sử Phật Tổ, ngày giáng sinh của Đức Phật Thích Ca đã xuất hiện là ngày 8 tháng 4 âm lịch, điều này nhiều nhất thấy ở các kinh sách Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng Bắc Tông cũng có bộ nói sinh ngày 15 (trăng tròn) đó là bộ Tây Vực Ký đời nhà Đường.

             Trước kia nước ta cũng như các nước lớn trong khu vực Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên.....đều làm lễ Phật Đản vào ngày 8 tháng 4 âm lịch . Tên gọi cũng như việc làm ngày Phật Đản, “ngày tám tháng tư “ đã lưu truyền hàng bao thế kỷ ở nhiều nước trên thế giới, đã trở thành phong tục tập quán cổ truyền, ấn tượng ăn sâu vào đầu óc mọi người, kể cả người theo hay không theo đạo Phật cũng đều nhớ như vậy.

“Cách xa dù mấy nhịp cầu.

      Đến ngày Phật Đản 5 châu cũng gàn.”

                “Dù ai buôn bán đâu đâu

       Nhớ ngày Phật Đản rủ nhău mà về”        &nb sp;   Nhưng kể từ đầu thập niên năm sáu mươi thi ngày Phật Đản lai là ngày 15 tháng 4 âm lịch và cứ tiếp nối từ đó đến nay hàng năm cứ đến ngày trang tròn tháng 4 là ngày Đản Sanh của Đức Thế Tôn mà hầu hết các nước ở Châu Á và những người con Phật trên kháp năm châu đều nhộn nhịp tổ chức kỷ niệm của Đức Phật giáng trần. Vậy ta thử tìm hiểu xem tại sao ?. Nguồn gốc của đạo Phật là phát sinh từ xứ Ân Độ, Trung Quốc là một nước lớn đạo Phật du nhập sớm, kinh sách dịch ra chữ Hán rất nhiều, truyền sang nước ta gắn liền với âm lịch hiện nay ta vẫn dùng. So sánh hai thứ lịch này với nhau để xét tìm bàng cớ : Phật giáng sinh vào ngày nào, tháng nào của lịch Ấn Độ, ngày đó có phải ngày trăng tròn hay không, đem ghép vào lịch Trung Quốc mà tính toán, xem nhàm vào ngày nào, tháng nào của thứ lịch này thì mới thấy rõ được.

             Ở đây chú ý một diều : Gọi là ngày trăng tròn, nhưng chính là thời điểm trăng tròn thì giờ quãng đầu của ngày đó, phải tưởng tượng như mình đang đứng ở góc độ múi thứ sáu của địa cầu làm mốc mà nhìn trăng tròn, mới đúng giờ “sao mai mọc” hay giờ Dần, khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni đản sinh ra cõi nhân gian trong ngày đó. Nếu chỉ chung chung, dựa vào những câu đơn thuần trong các bộ kinh sách nói từ xưa, thì không có gì xác đúng cho lám, không thể khám phá vấn đề mà giải quyết dứt khoát được.   

             Trong bộ Phật tổ thống ký đã tập hơp sáu bộ kinh sử đều nói Phật giáng sinh năm Giáp Dần : a)Chu thư dị ký. b)-Pháp bản nội truyện, c)- Nguỵ thư – d)- Nam nhạc, -đ)- Phụ hành, e)-Pháp lâm. Tất cả đều thống nhất nói rằng : Đức Phật Thích Ca giáng sinh nhằm đời nhà Chu Cơ, vua Chiêu vương năm thứ 26 (có chỗ nói năm thứ 24) là năm Giáp Dần (tính theo lối 60 mươi năm hoa giáp của Trung Quốc).

             Bộ thống ký này tính toán rất tỷ mỷ, diễn tả từ khi Phật còn là vị Bồ tát ngự trên cõi trời, Đản sinh xuống cõi người, đến khi xuất gia (năm Mậu Dần, 25 tuổi đời), thành đạo ( năm Quí Mùi, 30 tuổi đời) , nhập diệt (năm Mậu thân, 79 tuổi đời). Tính đến năm Đinh mão – dương lịch 67 – niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, đời vua thứ II Minh đế đời Đông Hán, kinh Phật băùt đầu truyền dịch sang chữ Trung Quốc, rồi tính tiếp đến năm 2003 thì được 3021 năm.

             Như vậy Đức Phật giáng sinh trước vị Giê-su giáng sinh 1027 năm (Năm kỷ nguyên theo tây lịch là năm Tân Dậu, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 6, một số nước theo thiên Chúa giáo ở Châu Âu cũng chưa tìm được đúng năm sinh của vị Giê-Su, khi ấy họ hop nhau lại bàn cách đem số nguyệt chu nhân với số tuần chu để lấy kết quả được (19x28=532) liền quyết định lấy ngày năm đầu của số này làm năm kỷ nguyên của Thiên Chúa gọi tát là Công nguyên.

             Ngay cả cái ngày 25 tháng 12 cũng là ngày sinh của vị thần Công-xtăng-ti-nốp sùng bái, sau khi chinh phuc được nước này rồi lấy ngày đó làm ngày Noen của vị Giê-su, theo lối Âu Tây thường kể tuổi tròn, người ta qui định vị Giê-su tuổi Canh Thân, năm tuổi này là năm thứ hai trước kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, niên hiệu nguyên thọ, đời vua Ái Đế nhà Hán Trung Quốc. Khổng Tử sinh trước vị Giê-su 551 năm, khớp với thuyết của sư Tổ Hoàng Tán : Đức Phật giáng sinh trước ngài Khổng Tử 477 năm. Cộng được : (477-1+551)= 1027 năm.

             Người Anh lúc đó cai trị Ấn Độ có đào được tấm bia của Vua A-Dục khắc về niên đại Phật Đản, theo trên tấm bia này thì Phật giáng sinh lại là năm Bính Thân, tính đến năm 2003 là 2567 năm. Căn cứ trên các tư liệu nêu trên và các dữ kiện khác do đó trong đại lễ kỷ niệm Phật Giáo thế giới tại Tích Lan năm 1956 mới quyết định lấy ngày trăng tròn 15 tháng tư Âm Lịch làm ngày kỷ niệm Đức Phật giáng sinh cho cả thế giới.

             Tuy nhiên, ở những nước có Phật giáo nhưng không có Âm Lịch thì người ta theo dương lịch mà nói : “Phật giáng sinh ngày trăng tròn “ trong tháng năm dương lịch hằng năm cứ luôn luôn xê dịch : trong 100 năm chỉ có 4 năm là ngày 15 tháng 5 trăng tròn mà thôi. mặc dầu vậy, nhưng ngày trang tròn của tháng tư Âm Lịch lúc nào cũng rơi vào tháng 5 dương lịch. Nước ta và những nước theo Âm Lịch thì xưa nay vẫn tính năm, Phật sinh năm nào thì kể ngay năm ấy là một.

             Muốn xác định được ngày đại lễ Phật Đản trước hết phải tìm những điều ghi trong các kinh sách nói về lịch sử Phật tổ cả Bắc Tông lẫn Nam Tông (về ngày Phật Đản kinh sách Nam Tông nói rất đơn giản chi qui gọn một câu “ngày trăng tròn” mà thôi). đem đọ với giữa 2 thứ lịch Ấn Độ và Trung Quốc mà tra cứu thì mới đạt được yêu cầu mong muốn.

             Ấn Độ từ xưa vẫn có 4 thứ lịch : lịch Sóc vọng, lịch Mặt trời, lịch Địa cầu, lịch Ngôi sao. Trung Quốc cũng có 4 thứ lịch : lịch nhà Hạ, (chính kiến dần) lịch nhà Thượng hay nhà Ấn (chinh kiến sửu), lịch nhà Chu, (chính kiến tý), lịch nhà Tần (chính kiến hợi). Bốn thứ lịch này đều là Âm lịch. Lịch nhà Hạ vẫn hiện hành từ xưa đến nay, có thể gọi là âm dương lịch, vì nội dung đối chiếu cả các ngày tháng về dương lịch.

             Nay chỉ cần dùng 2 thứ lịch : Sóc vọng của Ấn Độ và Hạ lịch (ta thường gọi là nông lịch) của Trung Quốc mà xác định ngày lễ Phật Đản, vì 2 lịch này đều tính theo độ số chu toàn của sao Thái Âm xoay quanh trái đất mà làm lịch. Mỗi nguyệt chu là 19 năm, cũng mỗi năm 12 tháng, có tháng đủ, có tháng thiều và tháng nhuận bù trừ vào nhău, mặc dù ngày tháng sáp đạt có chênh lệch mỗi năm đều khác nhău.

             Mỗi tháng của lịch Ấn Độ đều muộn hớn lịch Trung Quốc một tháng rưỡi. Ngày trăng tròn của lịch Ấn Độ thì đạt vào ngàycuối cùng của mỗi tháng, chứ không phải giữa tháng như lịch Trung Quốc. Các ngày 30 trong mỗi tháng của lịch Ấn Độ đều trùng hợp với ngày 15 trong mỗi tháng của lịch Trung Quôc, như thế ngày trăng tròn của lịch Ấn Độ tức là ngày trăng tròn của lịch Trung Quốc vậy.

             Chỉ có một điều khác nhău giữa 2 lịch nhưng không ảnh hưởng sai trái với ngày trăng tròn. Nghĩa là lịch Trung Quốc một năm chia thành 4 mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông, lấy 12 con giáp Tý, Sửu, Dần, Mão.....đạt tên cho 12 tháng. Lịch Ấn Độ thì chia một năm làm 3 mùa : Xuân, Hạ, Đông (mỗi mùa 4 tháng) không có mùa Thu, lấy tên 12 ngôi sao đặt cho 12 tháng.

             Trên đây tôi sưu tầm biên soạn để chứng minh tại sao ngáy Phật Đản lại có sự thay đổi từ ngày 8 tháng 4 ra ngày 15 tháng 4 âm lịch, và xác định ngày Phật Đản là ngày trăng tròn. Đây cũng là ngày rất trọng đại đối với người Phật Tử chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu để am tường về bối cảnh lịch sử của Đức Bổn Sư .Tôi hy vọng đã góp một phần sự hiểu biết nông cạn của mình vào việc hoằng dương chánh pháp. Nếu qui chư Tôn Đức Tăng, Ni hoăïc các vị thiện trí thức, có những dữ kiện nào chính xác hơn xin chỉ giáo và có những gì thiếu sót kính xin quí ngài niệm tình thứ lỗi.

LÁ SỐ TỬ VI CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA – MỘT VỊ ĐẠI LỰC, ĐẠI HÙNG, ĐẠI BI .
- Đây là đoạn trích dẫn trong tập sách tử vi của cụ THIÊN LƯƠNG, sau đây Tử Vi Số Mệnh xin giới thiệu đoạn dẫn này.
- Ngày sinh: ngày 8 tháng 4 năm Mậu Tuất, giờ Ngọ
- Thưa tiên sinh sau một tời gian theo dõi đọc KHHB, nhất là số 11 ngày 15.10.73 vừa rồi, tôi đánh bạo đến đây mong rằng tiên sinh chỉ bảo cho biết thêm về tử vi.
- Bạch Đại Đức, hôm nay Đại Đức chiếu cố đến thật vinh dự cho tôi, biết đâu sau khi ra về, Đại Đức sẽ thấy thất vọng, cái tôi chỉ là thiểu học không căn bản. Xin thưa thật, sỡ dĩ tôi dám mạo muội trình bày ý kiến không ngòai mục đích tìm thầy mở lối.
- Xin tiên sinh đừng quá nhún nhường, tôi thật tình là một người tìm học tử vi, hôm nay có mang theo một lá số mà tôi có công sưu tầm theo sự hiểu biết của tôi, mong tiên sinh giải đáp cũng như những lá số tiên sinh đã phân tích lâu nay trên KHHB để làm thước ngọc khuôn vàng cho mức học của tôi. Không nói ra, chắc sau khi xem, tiên sinh cũng biết đây là số của đức Thế Tôn mà đời tôi đã trao trọn cho giáo thuyết của Ngài, căn cứ theo năm sinh là năm 563 trước dương lịch (Mậu Tuất) lấy ngày 8 tháng 4 giờ Ngọ để lập thành, xin tiên sinh cứ trung thực phân tách may ra tôi mới thêm phần nào ánh sáng.
(Trên đây là lời đàm thọai được ghi trong cuộc nói chuyện giữa cụ Thiên Lương và một vị Đại Đức, độc giả của giai phẩm KHHB)
- Sau cuộc tiếp chuyện với Đại Đức không quen biết, không dám phụ lòng người thành thật đã chiếu cố, để đền đáp công người đến tận nhà khuyến khích và được biết lá số của Đức Phật, tôi cố tìm kiếm những điểm chính nào mà Ngài đã vượt hơn thế nhân gọi là tuệ giác.
- Tuổi Mậu Tuất, Mệnh Thân đồng cung tại Hợi, ở vị trí sáng suốt cùng với thiên địa cảm thông, như người có sứ mạng, có sự đồng minh của thiêng liêng để dìu dắt nhân loại (Thiếu Dương được Hồng Đào Hỉ). Thiên Không đây mới thật vấn đề tài tình. Ở vị trí Dần Thân Tỵ Hợi, Thiên Không phải phụ thuộc Hồng Loan, dầu đồng cung hay xung chiếu, là bản tính của người không ham phù vân, tự tu tự tỉnh biết trọng cái lý công bằng thiên nhiên, hễ vay là phải trả, muốn là phải khổ, mọi sự vật đều là không, là chân lý vô thường của nhà Phật, là chân lý thường diễn biến hàng giờ hàng phút, tất cả không có gì là không biến dịch từ cái sinh đến cái diệt cứ liên tục thay nhau bất tận của cái thế luân hồi.
- Phủ phùng không là cái phủ trống rỗng, là cái không có gì, ngay cái mệnh của Ngài coi cũng là Không, thiết tưởng Hồng – Lộc xung chiếu, Ngài còn thiết gì mà không ngăn cách bằng Tuần, huống chi Hồng Lộc là miếng mồi ở trong có thuốc độc (Hà-Sát) với Ngài là bậc tuệ giác làm sao mà không coi thường gạt bỏ.
- Thiên Không đã tài tình mà Cô Thần ở đây không kém phần đặc sắc. Người ta thường nói Nam kỵ Cô, nữ kỵ quả thì lý đương nhiên là người cô quạnh cho đến cả vợ con ruột thịt đồng bào nhân loại đại –đồng, dầu Đông hay Tây, Nam hay Bắc dưới tệ nhãn của Ngài (Thiếu Dương Thiên-Hỉ) đều là con người nay kiếp này, mai kiếp khác cũng như nhau, Ngài vẫn một tình thương âu yếm nhân hậu ( Thiên-Đức, Nguyệt –Đức, Long- Đức, Phúc-Đức).
- Khoa, Đào, Việt, Tả Hữu là vạn năng của Phật, dầu ở khía cạnh nào vẫn là tập trung ở cái nhân tứ đức, cái tuệ- giác quán thông của Ngài cùng trời đất( thân mệnh đồng cung).
- Thiên tướng cung Quan ở Mão là Thiên Tướng hãm, nếu là tuổi khác không được Thiếu-Dương, không được Tứ-Đức, có lẽ đây là 1 ông thầy tướng số có hạng. Với Đức Phật như lá số này (Mậu-Tuất) chỉ là một thầy tu khiêm tốn không quyền uy, không ép buộc, không khuyến dụ ai phải theo mình, ai hỏi thì nói, nói rồi coi cũng như không nói. Thiên Tướng đây có tính cách bình dân muốn để quần chúng tự ý giải thoát mình, chứ Ngài không muốn cho mình là người sáng ban phát ơn-huệ cho ai là người mê muội. Cái phẩm chất của Thiên Tướng (Mão Dậu) nó đã giản dị cặp thêm thiên quan có ý nghĩa thông cảm trời cao (Dương), Thiên-Phúc đất rộng (Âm) là sứ mạng của người thông đạt lý lẽ âm dương muốn mọi người hết mê để tự mình thành Phật hết cả.
- Nó thong thả tự do tự mình cởi mở lấy mình, ngay cả những lời Ngài nói đừng có tin ngay. Chứng nào thấy chắc chắn có giá trị thì hãy theo cũng có nghĩa căn bảo người ta chớ đừng sùng- tín dễ dàng để rồi dễ thành thành –kiến sai lạc cho học thuyết luân lý hay tôn giáo.
- Căn cứ theo số này người Dần Ngọ Tuất vận hành đến Tỵ Dậu Sửu là phải khắc phục và bị sa lầy, biết rằng Ngài giác Ngộ từ năm 29 tuổi và dấn thân vào khổ hạnh hành xác mất 6 năm tức là ở giai đọan 22-31 mất 3 năm chót và 3 năm đầu ở giai đọan 32-41. Ngài đắc đạo năm 35 tuổi thành một vị thế tôn. Ở vị trí Quan-Phù, Thai-Tuế, Bạch Hổ cùng ảnh hưởng của Thái Dương ở Dần là mặt trời ló dạng ở Chân trời, rồi từ đó mà đi cho đến ngày tịch ở tuổi 80 ở cung Ngọ được Nhân loại tôn sùng kính bái cho đến ngày nay trên 2.500 năm.
- Đời Đức Thế Tôn Thích Ca dĩ nhiên Ngài thành Phật là ở chỗ Tuệ-giác hơn người ( thân mệnh đồng cung ở vị trí Thiếu Dương, Thiên-Hỉ hội đủ Tả Hữu, Khoa,Đào, Việt, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Đức, Phúc Đức và cả bộ Thiên Quan, Thiên Phúc) mới dứt bỏ được địa vị cao sang, vợ đẹp con khôn phải là một người hùng, không ỷ lại vào đâu để tìm chân lý là người có nghị lực, song rồi chỉ có một hoài-bão sao cho nhân loại được giải-thoát trần ai khổ ải là đại từ bi.
- Bạch Đại Đức theo lá số này, cứ như thiển kiến của tôi, có lẽ hình ảnh Đức Thế Tôn có phần in đúng, thì dĩ nhiên sự giác ngộ sâu rộng của Đại Đức đã tiến gần Đức Thế Tôn. Vậy để tạ lòng chiếu cố, tôi xin tóm tắt trình Đại Đức, không dám nào đánh trống qua cửa nhà sấm.
🙏🏻🙏🏻🙏🏻🙏🏻🙏🏻🙏🏻🙏🏻
Nam mô A Di Đà Phật!

Ngũ Lục Hợp trong khoa tử vi - trích sưu tầm tổng hợp

NGŨ LỤC HỢP PHÁP TRONG TỬ VI Có 5 cặp lục hợp : Thiên Đồng - Tham lang, Thiên cơ - Phá Quân, Thiên lương - Liêm Trinh, Thái Dương Thiên Phủ,...