Đã là dân chơi phân khối lớn thì hầu như ko ai ko biết tới Honda CB400, dòng xe được ưa chuộng và sử dụng rộng rãi ở ko những Việt Nam mà cả trên toàn Châu Á, bắt nguồn từ quê hương Nhật Bản, sự thành công rực rỡ về doanh số khiến Honda ko còn có ý định sản xuất tiêu thụ nội địa mà thay vào đó là thương mại hóa dòng xe này, biến nó thành một dự án lớn mà họ gọi là Project Big-1 vào năm 1990.
Tại sao lại viết là CB400 và CB400 Super Four??? Thực ra chúng là một và cũng ko phải là 1. Cái tên Super Four ra đời năm 1994 để đánh dấu và khẳng định thương hiệu cho CB400, nó có ý nghĩa liên quan đến đặc điểm của xe: 4 máy, 4 xilanh, và 400 phân khối. Trước đời SuperFour có các đời như CB-1, CB400 đời 92, 93, đều gọi chung là CB400. Các đời này và Super Four đời đầu gần như giống hệt nhau, cả về hình thức, con pô, lẫn các vách tản nhiệt máy và ko có báo xăng. Vì thế, rất nhiều người đi mua CB400 đời 94 mà ko biết rằng, thật ra, chúng có thể là CB400 đời 92-93.
Thông số kĩ thuật nói chung của CB400 SuperFour:
Loại Máy: Làm mát nước, 4 kì, 4 valves, DOHC 4 máy lên xuống cùng nhịp
Piston và hành trình: 55.0 mm * 42.0 mm
Dung tích máy: 399 cm3
Hệ số nén: 11.3
Công suất cực đại: 39 kW (53 PS) @ 11000 rpm
Momen xoắn cực đại: 39 N m @ 9500 rpm
Loại chế hòa khí: VPO4, sau này VTEC dùng chế khiển điện, Revo phun xăng điện tử
Truyền động: 6 số
Loại truyền động: xích
Phanh trước: Thường là 2 đĩa 2 pis
Phanh Sau: Cùm đơn với 1 đĩa và 1 pis.
Trọng lượng khô: khoảng 170 kg
KHoảng sáng gầm: 130 mm
Tổng thể dài, rộng, cao: 2050*725*1070 mm
Độ cao tay lái (theo nhà sx): 1415 mm
Chiều cao yên: 760 mm
Dung tích bình xăng: 18 litres
Max speed: 190km/h (điều kiện đường đẹp và thẳng)
Tăng tốc 0-60mph(0-100km/h): < 6 giây
CB-1, 400cc - Chiếc xe mở đầu kỉ nguyên hoàng kim của dòng CB400.
Click this bar to view the full image. |
CB-1 ra đời lần đầu tiên năm 1989, mang trên mình nguyên mẫu máy đua của CBR400 đời 1986. Tạp chí nước ngoài, cụ thể là ở Mỹ, có nói rằng max speed của nó có thể đạt tới 150mph (240km/h!), điều này dĩ nhiên là ko có cơ sở nhưng cũng phải thấy rằng, CB1 mang máy của xe thể thao original mà ko con CB400 nào đời sau được thừa hưởng, cho đến giờ nó vẫn là con CB400cc duy nhất có máy CBR (mà sau này dòng Hornet thừa hưởng).
CB1 có vóc dáng hở khung, hở máy rất "naked", cục máy trơn tru, ít vách tản nhiệt nói chung ko thể lẫn, vì vậy ko cần chú ý quá nhiều về hình thức của nó.
CB400 SUper Four đời đầu
Như đã nói, CB400 các đời 92-93 gần như giống hệt đời 94, vì vậy khó mà nhận ra nếu chúng bị "luộc" đời.
Điểm chung của các con Super Four đời đầu là tản nhiệt đầu bò có 4 vách, bưởng hơi trơn tru ko có vách tản nhiệt, ko có đèn hay kim báo xăng. Đồng hồ có báo nhiệt. Nền công tơ mét màu trắng.
CB400 SUper FOur version R-1995
Chính nhà sx Honda có lẽ cũng tự biết đời CB400 và SuperFour 94 bị "loạn mã" bởi chúng quá giống nhau. Vì thế năm 1995, một phiên bản hoàn toàn mới của CB400 Super Four ra đời. Đó là chiếc Version R, có quây đầu, có báo xăng, vách tản nhiệt 5 lá đầu bò và 4 lá trên bưởng côn
CB400 Version S
Đây là dòng xe có vòng đời rất dài, từ 1996 đến 1998, vì nó nằm trong công tác kỉ niệm 50 năm thành lập của Honda, để khiến Version S "xịn" hơn các đời khác, Honda đã nghĩ đến việc trang bị hàng hiệu cho chúng, cụ thể Version S đời 1996 và 1997 có đôi giảm xóc Showa, cùm phanh Nissin hàng hiệu và được sản xuất hạn chế.
Riêng con CB400 SuperFOur VerS 98, là bản Version S "xịn" nhất của Honda, ngoài những thứ kể trên ở bản Version S 96-97, nó được trang bị cùm phanh trước hàng hiệu Brembo, đôi lốp Bridgestone, đèn công màu dâu tây và một điều đặc biệt nữa, là chiếc SuperFour Version S đời 98chỉ có duy nhất màu trắng sữa mà thôi.
Click this bar to view the full image. |
Con CB400 SuperFour date 98 chuẩn nó như này đây.
CB400 Super Four VTEC (vòng đời 1999-2001)
Click this bar to view the full image. |
Còn tem zin em nó như thế này:
VTEC là công nghệ có cái tên dài dòng Variable Time and Electronic Control, có nghĩa là công nghệ khiển điện đóng mở valves, nói nôm na là khi chạy chậm nó sẽ chỉ chạy với 8 valves, trong khi nếu vượt ngưởng 6,700 vòng/phút (đối với VTEC1) xe sẽ mở đủ 16 valves cho chủ xe "have fun".
VTEC ko làm cho xe ngon, bốc hơn mà căn bản nó giúp xe tiết kiệm nhiên liệu hơn.
VTEC1 có 6 lá tản nhiệt đầu bò, vách bưởng hơi cũng có 6 lá tản nhiệt, chi tiết máy sắc sảo hơn Version S và chế hòa khí có khiển điện. Rất dễ phân biệt với các đời ko phải là VTEC.
CB400 SuperFour HyperVTEC2 (vòng đời 2002-2004)
Click this bar to view the full image. |
Con VTEC2 này nhìn qua giống hệt như VTEC1, gần như ko khác gì, option gần như nguyên. Giống nhau 99%
THế thì phân biệt như nào , cái chính là 1% khác biệt giữa chúng chính là con VTEC2 này có chìa HISS (khóa từ), đây là option của VTEC2 và nó giải thích vì sao VTEC2 đã được gọi là HyperVTEC (tượng trưng cho công nghệ cao hơn). Mặt đồng hồ của VTEC2 cũng có chú thích là "VTEC2"
Ngoài ra, về kĩ thuật, con VTEC2 này có độ mở VTEC sớm hơn VTEC1, nó mở ở khoảng 6,500 vòng/phút.
CB400 HyperVTEC3 (vòng đời 2004-2006)
CB400 SuperFour HyperVTEC3 giống gần như hệt VTEC2, cũng chừng ý vách tản nhiệt, chế cũng có dây điện, cũng có chìa HISS. Nhưng nó có một điểm khác là có cái đuôi đặc trưng, nhọn và cao, đây là cái đuôi tương đối đẹp, theo phong cách dòng Hornet và rất "racing". Đồng hồ của nó cũng chú thích là "HyperVTECIII". Nó cũng có độ mở VTEC sớm hơn VTEC2 (khoảng 6,250 vòng/phút).
VTEC3 được coi là con CB400 ngon nhất từ trước đến giờ, được đánh giá cao nhờ kiểu dáng đẹp và công nghệ VTEC trên nó. HyperVTEC Revo sau này gặp rắc rối chút ít vì phun xăng điện tử nên nhìn chung dân chơi xe vẫn chuộng VTEC3 hơn là Revo.
Đời 2004-2005 chỉ khác 2006-2007 ở mỗi cái là pat bắt công sơn đen thôi chẳng khác gì nữa nên rất dễ "luộc".
CB400 SuperFour HyperVTEC Revo
Click this bar to view the full image. |
Thể theo cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong tương lai gần, Honda lại tiếp tục sản xuất mẫu HyperVTEC Revo với tiêu chí tiết kiệm xăng lên hàng đầu. Công nghệ VTEC hiện đại lấy nguyên mẫu từ VTEC3 cộng với bộ phun xăng điện tử là điểm khác biệt về công nghệ với các dòng VTEC trước. Trang bị khóa từ HISS, chiếc bô hoàn toàn mới, kiểu đuôi nhọn hiện đại cũng lấy nguyên mẫu từ VTEC3 và bộ máy "trơn tru" rất sexy. Rõ ràng Honda hy vọng HyperVTEC Revo thành công rực rỡ.
Tuy nhiên theo nhiều dân chơi xe nhận xét, con Revo chạy khá good nhưng nước đề khá tệ. Có lẽ VTEC đã chỉ mở 8 valves mà lại còn bị điều xăng bởi bộ FI khiến Revo bị ì ạch nước đề. Tuy nhiên họ cũng nhấn mạnh nước hậu của Revo khá good ko kém gì VTEC3.
CB400 SuperFour Vtec Cối
Giữa SF và Vtec còn tồn tại một đời xe khá hiếm mà giang hồ hay gọi là Vtec Cối sản xuất khoảng năm 99-00 dành cho thị trường Đông Âu
Phần lá tản nhiệt đầu bò và bưởng côn giống hệt Vtec1, nhưng lốc máy thì lại giống SF 94
Phuộc trước giống Vtec 2, phuộc sau không có bình dầu
Đồng hồ y chang SF94
Phân biệt các đời honda super four SF400 từ đời 92 đến đời 2011 (revo)
ã có rất nhiều bài viết về CB400, nhưng không có ai là một giới thiệu đầy đủ đến sự khác nhau đặc biệt giữa các đời CB400 kỳ động cơ khung gầm cả, nhiều người mua một chiếc xe đi chán vẫn chưa biết là chiếc xe thuộc đời nào.
CB400SF lần đầu tiên được phát triển từ các CB-1, và năm 92 để đáp ứng nhu cầu chơi xe khác CB1000, Honda đã đưa ra một thế hệ xe mới CB400SF, Với số khung là NC31-100XXXX, số máy là NC23E-110XXXX, lốp sau là 130
94 và 92 năm CB400SF xuất hiện về cơ bản là không có khác biệt.
94 năm CB400SF số khung là NC31-120XXXX, số động cơ NC23E-150XXXX được thay đổi thời gian đánh lửa và hành trình piston, thay bộ chế hòa khí VP22C bằng bộ VP22A,thay đường kính ống xả từ 28mm thành35mm
Năm 1995 năm thay đổi mầu của cụm động cơ thành mầu đen, cụ thể lốc chụp bộ li hợp được sơn đen hoàn toàn, logo HONDA ở chính giữa
Ống xả vẫn giữ nguyên theo mẫu 94
Cũng chính năm này CB400SF có sự thay đổi lớn, mà chính sự thay đổi này đi theo hành trang CB đến tân bây giờ. Đó chính là phiên bản R, trong phiên bản đặc biệt này vòng tua máy được nâng lên thêm 1000 vòng\phút, tức 15.000 thay vì 14.000 như những phiên bản trước. Bộ chế hòa khí đổi thành bộ VP02, với cảm biến độ mở ga. van xả đồng thời được thay đổi với lò xo lớn hơn. Về phần ống xả thay đổi rõ nét bằng việc thu từ 4 xuống 2, từ 2 gộp vào họng đón của pô, thay đổi này rõ ràng cho khả năng thoát máy tăng công xuất hơn việc chụm 4 ống xả làm 1 trước khi nối vào họng đón của pô. Cũng nằm trong những thay đổi của ông xả là tại phiên bản trước ống xả làm bằng inox sử lý nhiệt thì ở bản 95 này đoạn trên làm từ thép còn đoạn sau là vật liệu nhôm được liên kết động bằng lò-xo kéo. năm 1995 CB400SF số khung và số máy là NC31-130XXX, NC23E-160XXXX. riêng phiên bản R các số đó là NC31-135XXXX, NC23E-165XXXX. Nhưng ở phiên bản này đèn vuông không nhận được sự đón nhận của giới biker, nên từ bản 96 trở đi đèn gáo tròn lại xuất hiện trở lại
Năm 96 CB400SF được cải tiến thêm một lần nữa.
Thay đổi trong cấu trúc của ống xả, bộ chế hòa khí đầu vào mở rộng 2,3-xi lanh, thời gian đánh lửa.
Phanh NISSIN calipers có bốn piston. Cả hai hệ thống phanh và 95 mô hình rất khác nhau
Sau đây là chi tiết của hình ảnh
phiên bản S-96 và phiên bản R-95 với sự thay đổi nhỏ, về cơ bản không có sự khác biệt lớn giữa các thay đổi.
Năm 96 CB400SF số khung NC31-140XXXX, số động cơ NC23E-170XXXX. Phiên bản R có số khung xe là NC31-145XXXX, số động cơ NC23E-175XXXX
Năm 1997. CB400SF đã có sự cải tiến tương đối lớn, màu đỏ đồng hồ thay đổi thành màu đen.
Các phiên bản thường có số khung NC31-150XXXX, số động cơ NC23E-180XXXX. Phiên bản S có số khung NC31-155XXXX, số động cơ NC23E-185XXXX
1998 ra mắt thế hệ mới nhất của CB400, phát hành một phiên bản kỷ niệm 50 năm thành lập Honda. Phiên bản 97S và 98S trong thực tế không có nhiều khác biệt, chỉ có thể dựa vào số khung và động cơ để phân biệt.
Phiên bản thường số khung NC31-160XXXX, động cơ số NC23E-190XXXX, Phiên bản S số khung NC31-165XXXX, động cơ số NC23E-195XXXX.
Riêng con CB400 SuperFOur VerS 98, là bản Version S "xịn" nhất của Honda, ngoài những thứ kể trên ở bản Version S 96-97, nó được trang bị cùm phanh trước hàng hiệu Brembo, đôi lốp Bridgestone, đèn công màu dâu tây và một điều đặc biệt nữa, là chiếc SuperFour Version S đời 98 chỉ có duy nhất màu trắng sữa mà thôi.
Sau phiên bản 98S Honda super four tiếp tục được honda phát triển lên các phiên bản Vtect với ưu thế nổi trội là tiết kiệm nhiên liệu
CB400 Super Four VTEC (vòng đời 1999-2001)
VTEC là công nghệ có cái tên dài dòng Variable Time and Electronic Control, có nghĩa là công nghệ khiển điện đóng mở valves, nói nôm na là khi chạy chậm nó sẽ chỉ chạy với 8 valves, trong khi nếu vượt ngưởng 6,700 vòng/phút (đối với VTEC1) xe sẽ mở đủ 16 valves cho chủ xe "have fun".
VTEC ko làm cho xe ngon, bốc hơn mà căn bản nó giúp xe tiết kiệm nhiên liệu hơn.
VTEC1 có 6 lá tản nhiệt đầu bò, vách bưởng hơi cũng có 6 lá tản nhiệt, chi tiết máy sắc sảo hơn Version S và chế hòa khí có khiển điện. Rất dễ phân biệt với các đời ko phải là VTEC.
Giá cho chú VTEC1 mồ côi "chuẩn" ở chợ là 65 củ
CB400 SuperFour HyperVTEC2 (vòng đời 2002-2004)
Con VTEC2 này nhìn qua giống hệt như VTEC1, gần như ko khác gì, option gần như nguyên. Giống nhau 99%
THế thì phân biệt như nào , cái chính là 1% khác biệt giữa chúng chính là con VTEC2 này có chìa HISS (khóa từ), đây là option của VTEC2 và nó giải thích vì sao VTEC2 đã được gọi là HyperVTEC (tượng trưng cho công nghệ cao hơn). Mặt đồng hồ của VTEC2 cũng có chú thích là "VTEC2"
Ngoài ra, về kĩ thuật, con VTEC2 này có độ mở VTEC sớm hơn VTEC1, nó mở ở khoảng 6,500 vòng/phút.
Giá của VTEC2 leng keng là khoảng 70-75 củ (mồ côi)
CB400 HyperVTEC3 (vòng đời 2004-2006)
CB400 SuperFour HyperVTEC3 giống gần như hệt VTEC2, cũng chừng ý vách tản nhiệt, chế cũng có dây điện, cũng có chìa HISS. Nhưng nó có một điểm khác là có cái đuôi đặc trưng, nhọn và cao, đây là cái đuôi tương đối đẹp, theo phong cách dòng Hornet và rất "racing". Đồng hồ của nó cũng chú thích là "HyperVTECIII". Nó cũng có độ mở VTEC sớm hơn VTEC2 (khoảng 6,250 vòng/phút).
VTEC3 được coi là con CB400 ngon nhất từ trước đến giờ, được đánh giá cao nhờ kiểu dáng đẹp và công nghệ VTEC trên nó. HyperVTEC Revo sau này gặp rắc rối chút ít vì phun xăng điện tử nên nhìn chung dân chơi xe vẫn chuộng VTEC3 hơn là Revo.
Giá tham khảo cho HyperVTEC3 là 85-90 củ (mồ côi). Còn những xe nào quảng cáo là VTEC3 đời 2007 hay 2006 thì nên mặc cả giá hẵng mua, vì xe 2004-2005 chỉ khác 2006-2007 ở mỗi cái là pat bắt công sơn đen thôi chẳng khác gì nữa nên rất dễ "luộc".
CB400 SuperFour HyperVTEC Revo
Click this bar to view the full image. |
hể theo cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong tương lai gần, Honda lại tiếp tục sản xuất mẫu HyperVTEC Revo với tiêu chí tiết kiệm xăng lên hàng đầu. Công nghệ VTEC hiện đại lấy nguyên mẫu từ VTEC3 cộng với bộ phun xăng điện tử là điểm khác biệt về công nghệ với các dòng VTEC trước. Trang bị khóa từ HISS, chiếc bô hoàn toàn mới, kiểu đuôi nhọn hiện đại cũng lấy nguyên mẫu từ VTEC3 và bộ máy "trơn tru" rất sexy. Rõ ràng Honda hy vọng HyperVTEC Revo thành công rực rỡ.
Tuy nhiên theo nhiều dân chơi xe nhận xét, con Revo chạy khá good nhưng nước đề khá tệ. Có lẽ VTEC đã chỉ mở 8 valves mà lại còn bị điều xăng bởi bộ FI khiến Revo bị ì ạch nước đề. Tuy nhiên họ cũng nhấn mạnh nước hậu của Revo khá good ko kém gì VTEC3.
Hiện giá của Revo rất chênh lệch với VTEC3 bình thường, tới gần 8,000USD một con Revo mồ côi, vì thế, dân chơi xe càng có cớ để coi VTEC3 là chuẩn mực, từ giá cả đến những gì nó đem lại.
Cuối cùng, tại sao tiêu đề bài viết là "PKL cho những ng bé nhỏ", vì với cá nhân tôi đánh giá, CB400 SuperFour phù hợp với nhiều người có chiều cao khiêm tốn, cùng với Hornet 250, nó là con Naked rất thân thiện với anh em mê pkl mà chiều cao hạn chế,
Tư liệu để viết bài này dựa trên các diễn đàn trong nước và nước ngoài có độ tin cậy khá cao (tôi không giám chắc 100%). Các bác dựa vào đây để làm chút căn cứ khi mua đồ “2 tay”. Giờ trình độ chém gió, chém giá của các bậc thầy trong làng CB400 cũng đã đang trong giai đoạn “chín muồi” nên giữ cho mình một chút kiến thức cũng là điều đáng quý.
Vtec1 thụt trước giả thụt ngược,củ phanh sau nằm trên,mặt đồng hồ có chữ Vtec1...
Vtec2 thụt trước thụt thẳng ,củ phanh sau vẫn nằm ở trên ,mặt đồng hồ có chữ Vtec2...
Vtec3 thụt trước thụt thẳng,củ phanh sau nằm ở dưới,mặt đồng hồ có chữ Vtec3...